Thế vận hội đang trở nên quá lớn
Trước khi Olympics lần thứ 30 khởi tranh, câu hỏi về quy mô của biểu tượng duy nhất về sự hợp tác quốc tế đã được đặt ra. Dưới đây là ý kiến của Gs Jean-Loup Chappelet, Viện Nghiên cứu cao cấp Quản trị công cộng Đại học Lausanne (Thụy Sỹ), đồng tác giả cuốn Olympic Marketing (Tiếp thị Thế vận hội).
![]() |
Quy mô của Thế vận hội khiến ngày càng khó khăn để thực hiện và giảm số lượng thành phố có thể tổ chức. Đang trong giai đoạn khó khăn do khủng hoảng kinh tế, nước Anh phải vật lộn với Olympics 2012. Hy Lạp, con nợ khổng lồ của châu Âu phải chịu một phần thâm hụt ngân sách vì Olympic Athens 2004 và thủ đô Italy - Roma đã từ bỏ quyền ứng viên cho Olympics 2020 vì không chịu nổi chi phí quá nặng cho Olympics.
Vấn đề quy mô của Thế vận hội đã có trong chương trình nghị sự năm 1972 khi giáo sư Chapelet theo dõi Olympics đầu tiên của ông ở Munich. Người Đức khi đó đã nói đến khái niệm gigantismus (khổng lồ). Chủ tịch hiện tại của Ủy ban Olympic cũng nói sẽ xác định rõ vấn đề này trong nhiệm kỳ của ông khi được bầu năm 2001, bằng một ủy ban xem xét Olympics. 117 khuyến nghị để giảm quy mô Olympics, đưa ra năm 2003, đã được áp dụng nhiều hoặc ít từ đó nhưng không có hiệu ứng đáng kể. Vấn đề ngày càng nghiêm trọng khi số người tham dự tăng lên, từ 196.000 người tại Sydney 2000 tăng lên 223.000 người tại Athens 2004 và 349.000 người tại Bắc Kinh 2008. Tuy nhiên, số lượng vận động viên Olympics vẫn ổn định bởi nó bị giới hạn trong khoảng 10.500 người từ năm 2000; trong khi các nhà báo, các kênh truyền hình và nhà tài trợ thì bùng nổ, cũng như nhân viên của Ban tổ chức (chủ yếu là tình nguyện viên).
![]() |
Từ năm 2000, số lượng môn thi đấu ổn định ở 28 môn, thậm chí giảm còn 26 môn tại London 2012, do bỏ bóng chày và bóng mềm, được thay thế bởi golf và bóng bầu dục 7 người tại Rio 2016. Nhưng số lượng môn thi đấu không thực sự là yếu tố quyết định quy mô Olympics vì một vài môn thể thao, đặc biệt là 7 môn thể thao đồng đội, cần nhiều vận động viên hơn các môn cá nhân như bắn cung (chỉ có 36 vận động viên nam và 36 vận động viên nữ tham gia). Sự cần thiết của việc lắp đặt và xây dựng cơ sở thi đấu lớn hơn nhiều. Một địa điểm thi đấu nhân tạo cho môn xuồng slalom hoặc cảng cho môn đua thuyền vô cùng tốn kém so với phòng tập cho taekwondo hay đấu kiếm, và khó khăn hơn để sử dụng sau đó. Hơn nữa, ngay cả khi số lượng huy chương Olympics được ổn định ở mức 300, một số liên đoàn đã thay thế các môn truyền thống bằng môn khác như marathon dưới nước hay xe đạp địa hình, đòi hỏi cơ sở vật chất bổ sung.
May mắn là doanh thu của Thế vận hội, cả mùa đông và mùa hè, đã tăng hơn 40%, đạt gần 5,5 tỷ USD tại Turin 2006 và Bắc Kinh 2008, và đạt 8 tỷ USD tại Vancouver 2010 và London 2012. Các khoản thu bao gồm: tiền bản quyền truyền hình (3,9 tỷ USD), quyền tiếp thị của các nhà tài trợ trong nước (2,5 tỷ USD) và quốc tế (1 tỷ USD), vé (800 triệu USD) và giấy phép cấp cho các nhà sản xuất hàng lưu niệm (185 triệu USD). Một nửa doanh thu này thuộc về Ủy ban Olympic Quốc tế, sau đó chia phần lớn cho quốc gia đăng cai và Liên đoàn thể thao quốc tế cũng như Ủy ban Phòng chống doping và Tòa án trọng tài thể thao quốc tế. Phần còn lại sẽ được chia cho từng Ủy ban tổ chức Thế vận hội. Các khoản thu này được sử dụng để cân bằng ngân sách điều hành nhưng không thanh toán ngân sách xây dựng cơ sở vật chất thể thao hay những cái khác. Sự chênh lệch còn lại sẽ được chính phủ bù. Với London, ngân sách tổng là 14,71 tỷ USD, trong đó chính phủ Anh chịu trách nhiệm phần lớn. Một vài người cho rằng số tiền nay không phản ánh chi phí thực tế.
![]() |
Tất nhiên, các di sản vật chất và tinh thần của Olympics có ý nghĩa bù đắp chi phí rất lớn. Chính phủ Anh và Ủy ban Olympic Anh bày tỏ tham vọng Thế vận hội sẽ giúp tái sinh phía đông London và tăng sự tham gia thể thao của người dân. Mục tiêu cuối cùng có ít cơ hội trở thành hiện thực. Thậm chí là sự suy giảm còn được ghi nhận ở một số môn thể thao. Tuy vậy, công viên Olympic phía đông London là một di sản tích cực để lại cho thế hệ sau, dù một số công trình như sân vận động Olympic vẫn chưa bảo đảm tương lai. Hiệu ứng hình ảnh của Olympics được coi là di sản phi vật thể phần lớn phụ thuộc vào thành công về mặt tổ chức và danh tiếng. Dù ít tiêu cực hơn Athens, công chúng cho đến nay vẫn khá lạnh nhạt, thậm chí là thù địch. Lần đầu tiên, một vài nhà tài trợ bị đưa ra tranh cãi: Coca Cola và Mc Donald’s với nguy cơ béo phì; Rio Tinto cho điều kiện làm việc tại các mỏ kim loại dành để làm huy chương Olympics; British Petroleum với việc quản lý môi trường của các địa điểm sản xuất và nhất là Dow Chemical với những tai nạn công nghiêp dã giết chết hàng nghìn người dân xung quanh nhà máy Bhopal tại Ấn Độ.
Đối với tác động kinh tế, vốn thường xuyên được đưa ra để lấy lý do tổ chức Olympics, thực tế được các chuyên gia đánh giá là quá thấp so với tổng sản phẩm quốc nội của nước tổ chức. Nhưng kinh tế không quan trọng khi chúng được thay thế bởi các vấn đề chính trị. Thật vậy, quy mô của Thế vận hội trở thành dịp để một số nước muốn đánh dấu sự xuất hiện hoặc trở lại trên trường quốc tế. Đó là Nhật Bản năm 1964, Đức năm 1972 và Hàn Quốc năm 1988. Giờ là Anh, sau Trung Quốc 2008, Nga sẽ đăng cai Thế vận hội ở Sochi năm 2014 và Rio Brazil 2016, sau đó có thể là Nam Phi và Ấn Độ cho năm 2024; Thổ Nhĩ Kỳ, Qatar và Azerbaijan cho năm 2020. Các nước này thường có nguồn lực tài chính đáng kể vì sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Việc Thế vận hội sẽ chỉ được tổ chức bởi các quốc gia giàu có là điều đáng tiếc cho ý tưởng nguyên sơ của Olympics.