Thầy Phùng kỳ quặc khác người (Phần cuối)
Thầy dạy môn nào cũng hay. ở môn nào thầy cũng bộc lộ cái tài hoa đặc sắc của mình. Vòng tay một cái là thầy vẽ xong cái hình tròn, tròn xoe cứ như vẽ bằng compa. Trong giờ địa lý, miệng thầy nói, tay thầy vẽ, mà bản đồ mỗi nước từng nét khúc khuỷu ở đường biên chính xác như bản đồ in.

Những con chim con mèo nhồi bông và những thí nghiệm do thầy khéo léo làm ra trong các môn sinh vật, vật lý, hóa học khiến các thầy khác lại một lần phải ghen tỵ. Thầy dạy nhạc thì thật duyên. Chất giọng vàng, gọng bạc của thầy dấy lên cả một phong trào ca hát trong nhà trường. Thầy là một con người đa năng, một nghệ sỹ đa tài. Tuy vậy, môn văn vẫn là môn thầy dạy hay nhất. “Thưa thầy, thầy tha lỗi cho em, nhiều hôm nghe thầy giảng thơ, em cứ như mê mị như ở trong cõi mơ ấy ạ”. Đó là lời tâm sự thành thật của cô Thủy, học trò lớp 9 với thầy. Thủy mười tám tuổi, mặt trái đào, mắt đen thăm thẳm và huyền bí như mắt con gái miền sơn cước, có mái tóc dài chấm kheo chân, có năng khiếu đặc biệt về môn Văn. Em rất ngưỡng mộ thầy và quý mến thầy. Nghe em nói vậy, thầy đáp: “Đừng khen thầy, vì nói hay không bằng nghe giỏi đâu, em”.
Thói đời ở đâu có tài đức, ở đó có đố kỵ ghen ghét. Huống hồ thầy hiệu trưởng Thức lùn tì, tóc rậm bờm ngựa, mắt ti hí, chân dài chân ngắn, tiên thiên bất túc lại vốn con người lòng dạ hẹp hòi. Thật tình thầy Thức trước nay tiến thân đều bằng thủ đoạn kèn cựa, đặt điều vu vạ. Hết lớp 12, thêm hai năm sư phạm nữa, câu viết còn chưa thành, bài toán một ẩn số giải còn sai, nói gì đến vi phân, tích phân với đạo hàm! Kiến thức xã hội thầy còn lỗi mốt hơn. Đã thế tác phong lại lúi xùi, nói năng lại bộp chộp. Thầy chỉ được mỗi cái tài ganh ghét chê bai người. Thôi thì còn thiếu gì điều thầy Thức sàm báng, chê bai thầy Phùng. Chê từ cái dáng đi biểu hiện nỗi sướng khổ bất định của thầy. Sàm báng cả cái nét chữ bay bướm sinh động của thầy vì cho thế là lẳng lơ, đa tình. Bỉ bai cả việc thầy quyết tâm đi bộ đội bằng việc uống thật nhiều nước và kiễng chân khi đo chiều cao để khắc phục nhược điểm thấp bé nhẹ cân là cố đấm ăn xôi và tiếc thay xôi lại hẩm, vì cuối cùng là như tù giam lỏng trong một cái kho ở giữa rừng. Thầy Thức thấp kém lắm, thầy có biết đâu, khoảng thời gian sống một mình đó là cơ hội hiếm hoi của đời một con người. Con người phải được cá thể hóa đến triệt để trong tập thể. Con người phải tự ngẫm, tự suy xét ra điều hay lẽ phải chứ không thể a dua theo bầy đàn. Con người nhất thiết phải trở nên một kẻ có ích cho nhân quần. Chứ còn danh diện cá nhân đâu có phải là điều quan trọng! Thời gian một mình sống với cuộc chiến năm năm của thầy Phùng hóa ra là một trường học lớn. Nó quý giá gấp ngàn lần cũng quãng thời gian ấy sống nhởn nhơ ở hậu phương của khối người!
Trên thế gian này, con người đâu có sống thân ái với đồng loại mình! Hay theo cách nói lắt léo, hóm hỉnh của thầy Phùng thì con người vốn không ưa nhau, họ chỉ nhăm nhăm tìm cách hại trừ nhau một cách thân ái thôi! Có phải thế không? Câu hỏi này xin cứ treo đó. Còn bây giờ đã đến một bước ngoặt của cuộc đời thầy Phùng rồi. Vào cuối năm học này, cả thầy lẫn trò ở trường sư phạm này đều đang xôn xao và kinh ngạc về một vụ kỷ luật mà nạn nhân là thầy Phùng. Thầy hiệu trưởng Thức nói gay gắt: “Quan hệ thầy – trò là quan hệ thiêng liêng, không thể làm ô uế. Thế mà đây, thầy Phùng đã cả gan viết một lá thư tỏ tình với cô học trò Thủy! Vậy, thử hỏi thầy Phùng có còn xứng đáng được tồn tại ở nhà trường sư phạm tiên tiến của chúng ta không?”.
Chưa đến mức phải ra khỏi ngành, thầy Phùng chỉ phải đổi lên dạy ở bản Pao Mao Chải thuộc vùng sâu vùng xa của tỉnh tôi. Từ tỉnh đi bộ ba ngày mới tới bản quê heo hút xa xôi này. Bản này có hai thôn cách nhau ba cây số. Xưa rày ở đây trẻ con chưa hề biết đi học là thế nào. ở đây, cán bộ xã thay vì ký thì ấn dấu ngón tay điểm chỉ vào cuối tờ công văn báo cáo do anh giáo viết hộ.
Năm năm trôi qua đánh vèo kể từ ngày thầy Phùng bị kỷ luật đưa về dạy ở Pao Mao Chải. Và điều kỳ diệu lại đã xảy ra. Y như thời gian thầy Phùng là anh lính giữ kho đạn súng cối ở trong rừng vậy. Người ta có thể quên thầy, nhưng thầy không quên công việc. Đạn trong kho vẫn an toàn, không suy suyển. ở Pao Mao Chải còn hơn thế. Mặc người ta gây án oan, mặc người ta đầy ải. Năm năm qua, bản này đã có trường tiểu học hoàn chỉnh. Tất cả cán bộ xã đã đọc thông viết thạo. Hơn nữa, trường đã có phân hiệu với hai cô giáo vốn là người Kinh khai hoang tự nguyện tham gia.
Công sức tạo nên điều kỳ diệu này trước hết thuộc về thầy Phùng. Thầy Phùng như kẻ đã tu luyện đạt chính quả, một mình sống trong những hoàn cảnh cô độc biết tự mình thoát ra khỏi sự chi phối của ngoại vật, tự vạch ra con đường đi theo lẽ phải, không cần sự mách bảo, sự an ủi, khích lệ của ai. Thầy Phùng, một bản lĩnh và một tài năng! ấy thế! Một anh nhà báo tỉnh tình cờ lạc đường vào Pao Mao Chải đã phát hiện ra thầy Phùng và trên tờ báo tỉnh anh đề nghị thầy phải được tuyên dương anh hùng. Trong bài báo của mình, anh còn kể tỉ mỉ nhiều mẩu chuyện kỳ khu về thầy. Trong vòng ba tháng thầy đã nói thạo và hát được tiếng Mông. Chính là những bài hát dân ca Mông của thầy đã gọi học trò đến lớp. Cả người lớn cũng mê tiếng hát của thầy. Rồi chính tay thầy phát nương gieo hạt bắp, trồng cây rau để tự nuôi mình và giúp các em có hoàn cảnh khó khăn. Vui nhất là chuyện thầy dựng một cây luồng cao chót vót ở phân viện của hai cô giáo đóng cách xa thầy ba cây số rồi bảo các cô mỗi khi cần thầy đến giúp đỡ thì kéo lên ngọn cây cột một mảnh vải trắng để làm hiệu. ở xa, điện thoại không có, trống gõ, kẻng khua cũng không nghe được, chỉ có mắt nhìn thấy thôi! Thầy nói thế và các cô giáo có bận bí quá đã kéo lên ngọn cây nọ cả chiếc áo lót áo con của mình! Ha!
Tất nhiên là bài báo đã gây ấn tượng mạnh. ủy ban tỉnh điện hỏi Sở Giáo dục: Sao không kịp thời nhân Pao Mao Chải thành điển hình tiên tiến? Sở Giáo dục lập tức chỉ thị cho phòng giáo dục huyện lập ngay một đoàn kiểm tra đi ngay Pao Mao Chải để xác minh. Và dẫn đầu đoàn kiểm tra này lại chính là thầy hiệu trưởng Thức ngày nào. Thì ra năm năm qua thầy Thức cũng đã kịp nhảy cóc lên chức trưởng phòng. Gặp thầy Thức ở Pao Mao Chải, thầy Phùng cười, nói: “Thì ra, con lợn ở đầu đòn gánh này đến chợ, thì ở đầu đòn gánh kia, củ chuối cũng đến chợ!” Thầy Thức tảng lờ, không nói gì, thầy Phùng nói tiếp: “Hóa ra Tôn Ngộ Không hóa phép thần thông quảng đại thế nào cũng không ra khỏi bàn tay Đức Phật Như Lai nhỉ?” Thầy Thức vẫn ngậm môi, không hé răng. Cho đến tận khi đoàn kiểm tra làm xong việc, trước khi rút quân, thầy trưởng phòng mới đến trước mặt thầy Phùng, mắt ti hí lầm lì, nghiến răng trèo trẹo gầm ghè: “Này, đừng tưởng bở! Dám bầy trò kéo áo quần đàn bà lên cột cờ làm tín hiệu để gọi bạn tình, phạm húy điều thiêng liêng như thế, lần này thoát được để thành anh hùng thì thật là kỳ quái đó!”.
Nghĩ thế nào, thầy Thức nói thế, chứ thầy đâu có ý dọa dẫm. Thầy Phùng đã phạm phải trọng tội! Và lặng lẽ chẳng một lời kêu oan, thầy chấp nhận án kỷ luật bị sa thải ra khỏi nghề thầy.
Ra khỏi nghề thầy, cũng lại thật kỳ quặc, thầy Phùng vui vẻ gia nhập cuộc sống thường nhật của một người lao động lương thiện. Thầy trở thành một người thợ mộc khéo tay chuyên đóng bàn ghế và làm các đồ dùng giảng dạy cho các trường tiểu học, các lớp mẫu giáo ở thị xã này. Bây giờ, thi thoảng lại bắt gặp thầy sùm sụp cái mũ lá rộng vành, một mình một bóng ở một vỉa hè nào đó, vừa cặm cụi cưa đục vừa lẩm nhẩm mình hát mình nghe, lòng dạ vẻ rất thư thái thanh nhàn.
Thế đó, thư thái thanh nhàn thật, vì đâu có phải còn một miền xa chưa tới? Một chân trời chưa tỏ? Một ao ước chưa thành? Cuộc đời dấm dẳn như váy ba bức, khi nghiêm túc, lúc tếu táo, đều đã trải. Đời người như căn nhà lớn có nhiều căn buồng nhỏ, buồn vui, cay đắng ngọt bùi đều đủ chỗ chứa. Mới nghiệm ra rằng con người rất cần có những khoảng sống riêng một mình, tự mình trò chuyện, ca hát với mình, tự mình tìm đường và tự xét lấy mình.
Thế đó, ông thợ mộc Phùng ẩn mình dưới bóng cái mũ lá rộng vành, ngày ngày cắm cúi với công việc của mình. Cắm cúi một mình với câu hát quen thuộc thầm thì trên môi, nghe vừa cao ngạo vừa nao lòng: Sơn nữ ơi! Đời ta như cánh chim chiều phiêu dạt thời gian vun vút trời mây. Sơn nữ ơi!...
Cho đến một hôm tay đang kí cách đục đẽo, miệng đang lầm nhầm Sơn nữ ơi, thầy bỗng nghe thấy một tiếng gọi tên mình. Ngẩng lên, thầy thấy một phụ nữ xinh đẹp mặt trái đào, mắt đen thăm thẳm bí ẩn như mắt con gái miền rừng, có búi tóc lớn, vừa bước lên vỉa hè. Còn đang ngơ ngác thì người phụ nữ đó đã tiến tới nắm bàn tay thầy, gọi to: “Thầy Phùng ơi! Em là Thủy đây, thầy còn nhớ cái đứa nghe thầy giảng thơ mà mơ màng mê mẩn không?”. Mặt bần thần, thầy Phùng lắc lắc đầu: “Có lẽ em nhầm tôi với ai đó rồi!”. Người phụ nữ xưng là Thủy kêu lên: Không! Không! Em nhầm làm sao được! Rồi nước mắt lưng tròng, chị tiếp: “Lỗi là tại em, thầy Phùng ơi!”. Nghẹn ngào chị kể, thì ra hồi đó, chính chị đã viết một lá thư bày tỏ tình yêu với thầy và lá thư đó không hiểu bằng cách nào đã rơi vào tay thầy Thức rồi lập tức trở thành duyên cớ của câu chuyện vu cáo đê tiện với thầy. Chăm chú nghe người phụ nữ nói, nhưng thầy Phùng lại ngẩng lên, lắc lắc đầu: “Có lẽ em nhầm tôi với ai đó rồi!”. Người phụ nữ xinh đẹp tên Thủy một lần nữa lại không chịu lui bước, bằng một động tác dứt khoát, chị đưa tay lật cái mũ lá rộng vành ra khỏi đầu thầy Phùng: “Trời! Anh Phùng! Gương mặt anh, thần thái anh tinh anh thế, em nhầm sao được!”. Cố chấp đến cùng, thầy Phùng lại lắc đầu, quanh co: “Tôi cám ơn em, nhưng tôi có một người em sinh đôi, giống tôi như đúc, Thủy à!”. Tuy vậy, lần này thầy nói vừa hết câu, nước mắt đã ứa chan chan, toàn thân run rẩy trong một linh ứng tiên thiên rất dị thường, và người phụ nữ xinh đẹp tên Thủy đã kịp ngả đầu vào vai thầy, nức nở: “Anh Phùng! Thế nào thì với riêng em anh cũng đừng trốn lẩn nữa, anh ơi!”.
Hồ Ngọc Khánh