Thầy Khiển (Phần cuối)
Truyện ngắn của Ma Văn Kháng

Thầy Khiển không biết gì về anh em lão chèo đò, chữa đèn pin kính bút ư? Họ có thể trả thù thầy. Họ có thể bắt thầy kiểm điểm. Họ có thể thi hành kỷ luật thầy. Thậm chí có thể sa thải thầy. Mà thầy, tiếng vậy cũng yếu bóng vía lắm. Thầy chỉ có bà vợ sồ sề với chiếc máy khâu cọc cạch cùng ba đứa con nhỏ. Thêm nữa có chăng là ông cuarơ mở cửa hàng sửa chữa xe đạp và ông thợ săn cùng bà vợ bán thuốc Tây. Nhưng bạn bè nếu là chỗ dựa thì chỗ dựa của thầy cũng đã lung lay rồi. Vì, sau chuyện nọ ít lâu, họ đã biến mất. Nghe kể lại thì hóa ra, một đêm đầu tháng vừa rồi, các ông bà bè bạn nọ của thầy đã bí mật vượt sông, trở lại vùng tề. Họ đi, để lại nỗi dị nghị trong dư luận dân làng về tư cách chính trị của thầy. Rồi giữa lúc đó lại xảy ra việc chiếc máy bay hai cánh của Pháp sà xuống phố thấp đến nỗi cánh quạt nó thổi tung cả mái lợp chợ, và ông Chiên quả quyết rằng: máy bay Pháp nó rà soát lại những địa điểm bọn gián điệp báo cáo, để chuẩn bị oanh tạc nay mai đấy, hãy liệu hồn!
Lúc này chúng tôi mới nhận ra thoảng qua gương mặt lút sau đôi kính của thầy Khiển một chút nén chịu nỗi tỏa nhục đang bao vây mình. Nhưng chỉ là thoảng qua thôi. Cũng thoảng qua như một câu nói của thầy ở buổi sáng hôm ấy. “Chúng ta phải sẵn sàng đối phó nếu nhà trường bị phi cơ Pháp oanh kích”. Thoảng qua thôi vì ngay lập tức tất cả chúng tôi bị cuốn vào không khí bận rộn chuẩn bị đón cán bộ Ty Giáo dục về thăm và kiểm tra trường.
Đoàn cán bộ Ty Giáo dục có ba người, dẫn đầu là ông Sự. Ông Sự, biệt danh Sự sờ nặng chỉ hao hao giống ông Chiên vì hai người cùng mẹ khác cha. Mặt mỏng, mắt trầm, miệng bẹt như miệng cá trê, trông vẻ ngoài ông Sự hơi lù đù. Ngồi trên một cái ghế tựa ở cuối lớp suốt ba giờ dạy của thầy Khiển, mặt ông cứ lì lì, mắt ông cứ gườm gườm, và thỉnh thoảng lại như thạch sùng đánh lưỡi tách một cái hoặc giả vờ ngúc ngắc cổ để liếc mắt về phía mấy chị nữ sinh lớn tuổi của lớp. Trong khi ấy, đáp lại thái độ thiếu cởi mở của ông, thầy Khiển là một phong cách linh hoạt, biến hóa tài tình.
Giờ thứ nhất thầy ôm chồng vở bài tập tới cửa lớp. Cửa đóng vì gió lạnh. Hai tay vướng bận. Thầy xoay người lại, dùng mông hích vào cánh cửa rồi đi giật lùi vào. Sau đó ngoảnh lại, mắt thầy tươi vui và đắc chí như vừa vượt qua được vật chướng ngại. Đó là giờ số học. Thầy giảng bài thật khúc chiết và văn hoa, nhưng thỉnh thoảng làm như vô tình, hất hàm về phía ông Sự và hai ông cùng đoàn Ty Giáo dục, hỏi rất trịnh thượng: “Có hiểu thật không mà sao lầm lì thế, các cậu?”
Giờ thứ hai là giờ hóa học. Giờ này thầy toàn nói tiếng Nghệ An. Ôi cái tiếng miền Trung âm sắc lạ tai gây ấn tượng lạ lùng về sự phong phú của tiếng nói Việt Nam. Kết thúc giờ dạy, thầy nói: “Tiếng Nghệ cũng hay lắm chứ. Ở đời, đừng bao giờ nghĩ chỉ có mình là hay, là đẹp, các em à!”
Giờ thứ ba là giờ chính tả. Ba ông cán bộ Ty Giáo dục cùng ngơ ngác hơn vì thầy toàn dùng giọng Sài Gòn. Lại có phần giống như mọi lần, anh Ngôn trưởng lớp vẫn cố tật hay quên và nhanh nhảu, sau khi thầy đọc một câu dài, liền bật dậy gãi đầu gãi tai, hỏi: “Thưa thầy sung sướng với xấu xa viết thế nào ạ?” Nghe anh Ngôn hỏi vậy, thầy liền bảo cả lớp buông bút, nhìn lên bảng. Trên bảng đen hiện lên hai chữ s và x to đùng thầy vừa vẽ xong. Nói thầy vẽ là đúng, vì khi thầy hỏi: chữ s giống con gì, chúng tôi đều đồng thanh đáp là nó giống con chim. Và cũng như thế, chữ x giống con bướm. “ấy thế, thầy nói, miệng tủm tỉm, mặt tỉnh không, anh Ngôn nhớ cho thầy: sung sướng viết ét sì, chữ ét sì trông giống như con chim, còn xấu xa viết ích xì giống hình con bướm. Hay nói một cách ngắn gọn để dễ nhớ: sờ chim là sung sướng, xờ bướm là xấu xa. Được chưa nào?” Các chị nữ sinh nhạy cảm gục đầu ngay xuống mặt bàn cười nghẹn. Còn thầy, thầy đi xuống cuối lớp, đến trước ông Sự, đủng đỉnh: “Tôi chỉ nhân nhượng anh, một lần này nữa thôi nhé, anh Ngôn!” Các anh học trò lớn lớp tôi đều hiểu hàm ý trêu chọc của thầy, nhưng không ai dám quay lại nhìn ông Sự, vì cũng còn đang thú vị về sự ứng đối, liên tưởng cực kỳ nhạy bén, thông minh của thầy.
*
* *
Sấm sét hiển nhiên là sẽ giội xuống đầu thầy Khiển tôi rồi. Chuyện từ miệng học trò, từ mồm hai ông cán bộ tháp tùng ông Sự loang ra ngoài dân. Bố tôi cũng biết. Bây giờ ông cũng nhận ra hồi xảy ra câu chuyện tôi cởi truồng ở lớp, ông cũng bị ông Chiên kích động xúi giục. Ông cũng có phần nhận ra thầy Khiển tôi không phải là người xấu. Và ông lo ngại cho thầy. Chiên, Sự đều chẳng phải tay vừa. Chiên thì bạo tợn. Sự thì lợi khẩu. Mà trong tay họ giờ là quyền hành.
Quả nhiên ông phó ty đã chằng chằng nhìn vào hai mắt kính thầy Khiển và nhếch mép, kẻ cả:
Thế mới biết nàm ông thầy nà khó nắm!
Ông nói như lời thánh dạy vậy.
Thầy Khiển đáp, tay chập một như là khúm nịnh. Ông Sự trợn mắt:
Khó nà ở chỗ nào, ông giáo có biết không?
Dạ, ở chỗ phải tri kỷ tri bỉ.
Cái gì?
Phải tri kỷ tri bỉ. Tức là phải tự biết cái kém cỏi bỉ tiện của mình,
Phải giỏi chính trị! Chính trị! Hiểu chưa!
Ông Sự quát. Thầy Khiển ngẩng đầu lên ngập ngừng:
Vâng, phải giỏi chính trị và chính tả nữa ạ!
Tới đây thì ông Sự không giữ bình tĩnh được nữa. Ông xả một tràng liên tục. Ông kết tội thầy là vô chính trị. Ông nhắc lại lai lịch thầy vốn là vùng tề. Ông kể lại việc thầy tán chuyện trai gái buổi đầu nhập học. Ông dựa vào thế kẻ cầm quyền, lấy cái lý để thắt buộc cái thói gàn gàn ngông ngạo dở ương của thầy và cho rằng thầy là kẻ phản nghịch, xỏ lá, ba que, là phần tử bất trị, là quân phá hoại. Suốt một buổi họp ba tiếng đồng hồ nhận lời mắng mỏ, quy kết xối xả nặng nề của ông Sự, thầy Khiển cứ nín thít. Đến khi thấy ông phó ty đã có vẻ mệt, thầy mới rụt rè nhìn ông, hỏi: “Ông đã nói hết chưa ạ” và thầy khẽ khàng, rành rọt:
- Tôi từ cha sinh mẹ đẻ, thầy mẹ bán hai mẫu ruộng lấy tiền cho ăn học, chỉ cốt trở thành người tử tế. Tôi tự nghĩ, con người ta, trừ cao nhân dật sĩ, thiên tài ra, còn thì kể từ ông giáo trường làng như tôi, tới nhà nông canh điền, kẻ chèo đò ngang, anh thợ chữa khóa rong, cũng là sàn sàn như nhau, thì nên coi vui vẻ sống là đạo đức tính hàng đầu. Nước trong là vì nguồn không đục. Lòng có thiện thì mới biết vui cười.
Ông Sự nghe đến đó thì rối trí quá, liền đập bàn, át: “Thôi, thực tế sẽ trả nời ông!”
*
* *
Thực tế đã trả lời.
Thực tế thật phũ phàng, nó ủng hộ ông Sự, nó ở thể đối lập với thầy Khiển, nó đưa thầy vào thế chân tường. Thực tế chứng minh là lời cảnh báo hôm nào của chủ tịch Chiên là đúng. Tháng tám năm đó, vào một ngày nước sông Thi dềnh tới cao điểm, ngập tràn hai bờ, một đàn Đacôta Pháp đã bay tới ném bom triệt hạ phố làng tôi. Thiên tai phối hợp với địch họa, thật tàn bạo. Hơn một trăm người chết. Cái phố đông vui trên bến dưới thuyền trống trơ một vùng tóc tang, sau cơn khủng khiếp chỉ còn sót lại mấy cây gạo cụt cành, tơi tả. Nỗi kinh hoàng còn ám ảnh trên bộ mặt ngơ ngác, trong tâm trí hoang mang và len lỏi vào trong giấc mê dữ của cả bố tôi, người cứng vía nhất nhà. “Máy bay đấy, chạy đi!” Một đêm ông hét toáng lên như vậy, rồi bật dậy, sờ tấm lưng đẫm mồ hôi, lập cập tìm cái điếu, rồi nhìn mẹ tôi thì thầm: “Tôi thấy rõ ràng ba cái tàu bay nó dàn hàng ngang, đen sì sì mà chẳng thấy kẻng báo động gì sất! Hãi quá! Hừ, mẹ cha quân Việt gian nó leo cao chui sâu chỉ điểm và phá từ trong phá ra”. Mẹ tôi ngồi yên, lát sau thở dài. Bố tôi nói vậy có ý ám chỉ ai; mẹ tôi biết rồi. Ôi, sự đời nông sâu, lòng đời uẩn khúc, biết đâu mà ngờ!
Thầy Khiển bị bắt sau trận bom nọ ba hôm, sau khi thầy vừa làm lễ tam nhật, vĩnh biệt người vợ thân yêu của mình. Ba đứa con đầu quấn khăn tang mẹ, nước mắt ngắn dài, Theo bố đến tận cổng trại giam thì chúng nó bị gạt trở lại. Đứa lớn nhất mười hai tuổi, đứa nhỏ nhất tám tuổi, chúng giờ đây biết nhờ cậy vào ai. Anh Ngôn trưởng lớp của chúng tôi đã xuất hiện đúng lúc. Anh đưa chúng về sống cùng với vợ chồng anh. Và may thay, ba tháng sau, có lẽ cũng là nhờ một phần ở ba đứa con côi não lòng ấy, mà thầy được thả về.
Ôi, thầy Khiển, thầy Khiển của chúng tôi đã thoát cảnh tù tội. Nhưng, thầy không thoát khỏi cảnh thân cô thế cô giữa cộng đồng. Thầy bị sa thải ra khỏi ngành giáo dục. Thầy rộc rạc cả người, sự sống chỉ còn lại đôi mắt kính cận, nhiều lúc ngây đờ như vô cảm. Nhìn cảnh thầy còm nhom, một chiều thu hiu hắt cùng ba đứa con gầy guộc, nức nở trước mộ mẹ, chúng tôi không sao cầm được nước mắt. Cuộc sống thật là khủng khiếp! Chi phối chúng ta không phải là một sức mạnh vô hình. Tất cả đều rất cụ thể và đơn giản đến không ngờ!
Đơn giản như hôm nay ngủ ở đâu, ăn cái gì? Ngày mai ăn cái gì, ngủ ở đâu? Hỡi ôi, thầy giáo tài hoa, vui tính và ngông ngạo đã đem cả sở tri sở thức của mình mà tu bổ dân trí, người sẽ sống thế nào đây trong hoàn cảnh hẹp hòi và khắc nghiệt, ít sự bao dung cao cả này? Hay là người rơi vào cơn quẫn trí, tự mình minh chứng cho sự nghi ngại của mọi người là đúng. Đã gầy còm nay thầy thêm choắt cheo, lại như thần khí đã vơi cạn, hồn vía đã mất vài ba phần, thầy ngẩn ngơ, vật vờ như cái bóng vô định. Kính đeo trên mắt mà cứ tìm quẩn. Đang đi bỗng nhiên lại rạp xuống mặt đường như kiếm vật vừa đánh rơi. Ra đường mũ không đội, hai nách lại cắp hai chiếc dép, mồm lẩm bẩm: “Chim mỏ quặp. Cá mõm ngang, người lưỡi nhọn là đáng sợ lắm”.
- Tao lo cho thầy quá, nhưng nói với thầy, thầy lại cười khà, đáp: quân tử dựa vào mình, em ạ. Tao đã mua cho thầy một mảnh đất ở cạnh nhà tao, dựng một túp lều tạm cho bốn bố con thầy rồi. Tao chắc là thầy sẽ qua khỏi, sẽ xoay xở được.
Anh Ngôn nói vậy hôm tôi đến anh từ biệt để theo chú tôi lên tỉnh học tiếp. Cơ sự này, Tây nó sẽ còn cho máy bay bắn phá tiếp, năm học đầu trung học, có lẽ sẽ chỉ còn lại là những kỷ niệm đầy luyến nhớ với chúng tôi thôi.
Thôi mày đi. Thỉnh thoảng viết thư về thăm thầy. Ước gì có những người rộng lượng, biết đánh giá cái tài, cái tâm thật sự của thầy.
Anh Ngôn nắm tay rồi lắc lắc, cười ứa lệ.
Anh Ngôn này.
Mày còn thắc mắc gì...
Em chỉ sợ...
Thôi, mày đừng nói nữa - Anh Ngôn cướp lời tôi, giọng thắt ngẹn - Tao đang lo bời bời đây. Thầy mà ngã lòng, mà sợ hãi chạy sang vùng tề thì lão Chiên, lão Sự nó phải đốt pháo ăn mừng. Mà tao thì... chết mất! Không! Không bao giờ thầy là Việt gian, có đúng không? Thầy vui tính, có khi chơi ngông, nhưng thầy tốt bụng, thầy là người đàng hoàng, kẻ hẹp hòi hay đố kỵ, ít học sao hiểu được thầy!
Tôi xa làng từ đó. Và không ngờ xa thế, cả ba chục năm liền. Cả ba chục năm, khi ngồi trên ghế học đường, lúc trong quân ngũ, lại có thời như một thân cò kiếp vạc ăn nơi thung xa ở xứ người, vậy mà có lúc nào thôi bồn chồn về số phận thầy Khiển? Con người ta không nhất đán mà thành. Hình thành được một con người là cả một công cuộc lâu bền và khi đã hình thành thì con người ta là vĩnh viễn, bất biến. Vẫn biết là vậy. Vẫn biết thầy Khiển là vậy mà vẫn âu lo. Liệu con người kia, con người tài năng tâm huyết, có căn cốt đàng hoàng có vượt qua cái nhỏ mọn của chính mình và thói đời thiển cận, vì dị khí tương thù để thoát khỏi kiếp phận long đong?
*
* *
Cuối cùng thì khúc sông trắng lạnh đã hiện ra trước mắt tôi như để nhắc nhở tôi ý tưởng một cách ngôn cổ đại: người ta không bao giờ tắm hai lần trên cùng một con sông. Sông Thi đã miệt mài chảy qua đôi bờ lịch sử, giờ như một tứ thơ, phiêu lãng giữa bát ngát lúa ngô.
Tôi bước lên đò ngang, nhập vào đám các bà các chị gánh gồng qua sông sang phố chợ khi người lái đã chống mái chèo đẩy con thuyền gỗ khỏi bờ. Người lái đò! Chợt nhận ra ông trong sửng sốt và không nén được tò mò, tôi cúi xuống bà lão có gánh trầu cau ngồi bên cáng thuyền bên cạnh mình. Bà lão nhỏ bé, da bánh mật, phụng phệu miếng trầu, nghe tôi hỏi, hai con mắt như hai hạt bạc, lăn tăn ánh cười nửa như nhạo báng nửa như vô tư:
- Chẳng ông Chiên rậm râu sâu mắt một thời thét ra lửa thì còn ai nữa! Ông anh ông ấy tên Sự, người lưỡi nhọn, vừa mất tuần trước. ấy, hùng hùng hổ hổ được ít lâu, rồi cuối cùng mèo lại hoàn mèo!
Tôi ngẩng lên, hiêng hiếng mắt về phía đuôi thuyền. Thuyền đã xa bờ bên. Trần mây cao bổng, gió vi vút diễn đạt cái bao la vô cùng, đưa con người vào trạng thái sụt hẫng vì chợt nhận ra mình quá bé nhỏ giữa cô quạnh. Thuyền nhích ra giữa dòng, và người lái đò chừng như đã nghe thấy câu trả lời tôi của bà lão bán trầu cau, giờ mới hất hàm về phía tôi, bắt chuyện.
Trả lời câu hỏi của ông, tôi là ai, có việc gì mà hỏi ông, tôi đáp; tôi quê ở đây, nhưng giờ họ hàng, cha mẹ đã chuyển cư ra tỉnh rồi. Tôi về đây là để thăm thầy giáo Khiển. Tôi chính là “chú bé can đảm” đây. Tới chi tiết này, ông lái đò và cả chuyến đò như sực nhớ, bật cười à à. Và ngay lập tức như đã nấp sẵn ở đâu đó trong ký ức người này người nọ những câu chuyện vui có buồn có về thầy giáo của tôi được dịp sổ lồng, sống động cả lòng thuyền, mặt sông.
Ngắt cái cười đang hồi nắc nẻ, bà lão bán trầu cau hất mắt về phía ông lái đò, đột ngột đay đả mà nhẹ tênh:
- Mà sao hai anh em nhà ông hành người ta thế. Không cho người ta dạy học. Người ta chuyển sang nghề làm ảnh, cũng lại lấy cớ là mua lậu giấy ảnh, để cấm đoán. Người ta chuyển sang nấu kẹo nha, cất tinh dầu bạc hà cũng lại tìm cách triệt vi tróc vẩy. Nhưng mà sinh sự thì sự sinh, hạ được người ta có dễ đâu, ông nhỉ!
Cứ tưởng người lái đò bị khích vậy thì nổi giận. Nào ngờ, ông lại chàng cái miệng rộng lợi khẩu, cất tiếng khề khề:
- Nó là cái thời đối địch thì dịch lại đây. Bên là thừng, bên là chão. Chẳng ông nào chịu ông nào.
- Sung ngái một lòng, bưởi bòng một dạ mà sao dở trò thảm ngược với nhau thế?
- Bủ ơi, nó là tức khí vặt, ngông ngạo vặt, sĩ diện vặt, được thua vặt. Ông có chữ nghĩa thì khinh ông thất học. Ông thất học thì ganh với ông có chữ nghĩa.
- Thế có đắc thời nhất thế không?
Con đò chênh mạn tránh một lượn sóng, dấn qua dòng chảy giữa dòng sông. Bỏ qua câu hỏi móc máy đáo để của bà cụ am hiểu sự đời, ông lái đò đứng dậy, nhoai cánh tay đẩy mái chèo và nhìn tôi, chuyển giọng vui vẻ khác thường:
- “Chú bé can đảm” ơi, chú không gặp may rồi, thầy Khiển của chú vừa qua đò sáng nay. Thầy lên tỉnh đón cậu con trai thầy mới đỗ tiến sĩ về nước. Trên ấy còn có cô con gái thầy làm hiệu trưởng trường Trung học đấy. Ở đây, giờ chỉ còn mỗi cửa hàng sinh vật cảnh thầy nhờ tôi trông coi hộ thôi. Chú quay lui đi, tôi chở chú ngay giờ thôi.
Tôi đã lên bờ bên này. Ngỡ ngàng trước một thị trấn làng quê tấp nập càng kinh ngạc khi đứng giữa cửa hàng sinh vật của thầy Khiển tôi. Si, tùng, trắc bách diệp, thiên tuế, đại lộc bên đào, mai, súng, lựu, nguyệt quế, ngô đồng, gốc lớn, u nổi sần sùi, mốc mác, thân cành thanh nhã, cách điệu, chen đua cùng lưỡi hổ, xương rồng, ngà voi, cúc mốc dáng kiểu kỳ cục, lạ mắt. Xanh om cây lá một vùng vừa quần tụ trong chế ngự, vừa quẫy động dáng nét tài hoa của người gây trồng. Tôi đi qua dáng trực, xiên, hoành, huyền, các thế long giáng, phượng vũ, hạc lập, dừng lại ở một góc si cổ thụ, thế phụ tử, ở đó thân lớn là cha già gốc to, dáng thẳng đứng, thô cứng mà vẫn phảng phất vẻ hồn hậu, vui tươi.