Thay đổi tư duy thi hành án dân sự
Thủ tục thi hành án dân sự hiện nay có thể nói đang bị "hành chính hóa", làm giảm đáng kể hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Điều đáng lo ngại nhất là tạo ra cách hiểu giai đoạn thi hành án là một thủ tục bắt buộc để thi hành bản án, quyết định của tòa án - tạo nên tâm lý chây lỳ, không tự nguyện thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Có thể thấy đây là hệ quả xấu do chính những quy định trong Luật Thi hành án dân sự tạo nên. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2008 cần phải quán triệt tinh thần Điều 106 Hiến pháp năm 2013. Đó là bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Đồng thời cần thay đổi tư duy, cách hiểu giai đoạn thi hành án dân sự.
ĐBQH Trần Đình Long (Đăk Nông): Giao thẩm quyền quyết định thi hành án và thẩm quyền quyết định kê biên tài sản cho tòa án nhân dân các cấp là không hợp lý

Về phạm vi sửa đổi của dự án luật, tôi đề nghị phải nghiên cứu, rà soát lại và có sự sửa đổi một cách đồng bộ, nhất là Điều 13 về hệ thống tổ chức thi hành án dân sự. Tại luật này chúng ta đã sửa đổi Điều 173, 174 và 175 về trách nhiệm của chính quyền các cấp. Với đặc điểm của công tác thi hành án dân sự, tôi nghĩ việc sửa đổi này chưa bảo đảm khả thi, bởi vì công tác thi hành án dân sự gắn liền với chính quyền các cấp. Ví dụ như án lao động hay án hành chính thì hủy bỏ các quyết định trái pháp luật về những lĩnh vực nào đó, chỉ có cơ quan có thẩm quyền mới thay đổi quyết định đó, tòa án không thay đổi. Bởi vậy phải là cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về lao động hoặc cấp trên của cơ quan quản lý nhà nước ở cấp dưới có quyết định hành chính mới có quyền ra quyết định bắt buộc cơ quan cấp dưới phải thi hành trong trường hợp cấp dưới không có ý thức tự giác thi hành. Vì vậy, tôi đề nghị phải nghiên cứu lại quy định về hệ thống tổ chức của tòa án là phải trực thuộc UBND các cấp, Bộ Tư pháp chỉ quản lý nhà nước về chuyên môn nghiệp vụ, đào tạo bồi dưỡng cho chấp hành viên và cán bộ thi hành án các cấp thì mới phù hợp với thực tế.
Tôi thấy việc giao thẩm quyền quyết định thi hành án và thẩm quyền quyết định kê biên tài sản cho tòa án nhân dân các cấp là không hợp lý. Điều 106 Hiến pháp quy định bản án và quyết định của tòa án có hiệu lực thi hành, các tổ chức, cá nhân phải tôn trọng thi hành. Điều đó không có nghĩa là những công việc tiếp theo là một giai đoạn tố tụng, vì thế không có một lý do nào để tòa án phải tiếp tục ra quyết định thi hành án, kể cả thi hành án hình sự cũng phải nghiên cứu. Cơ quan thi hành án với tư cách là một công cụ của nhà nước bảo đảm thi hành bản án và quyết định của tòa án thì phải được quyền ra quyết định thi hành án và áp dụng các biện pháp cưỡng chế để bảo đảm thi hành án. Nếu giao những việc trên cho tòa án thì chỉ có thể sáp nhập hệ thống thi hành án dân sự vào tòa án trở lại thì mới có thể thực hiện được. Cách đó chỉ thêm thủ tục hành chính.
Điều 61 là sửa đổi việc miễn thi hành án dân sự, tôi cho cũng không hợp lý. Theo tôi sửa Điều 61 và Điều 62, 63 có liên quan theo hướng thu hẹp phạm vi miễn, giảm thi hành án dân sự. Chỉ miễn giảm vì lý do nhân đạo, còn lại mọi lý do khác là không được miễn, đồng thời phải sửa Điều 50 về điều kiện đình chỉ thi hành án, trong đó cần phải xác định rõ ngoài việc người chết không để lại di sản thì cũng phải quy định người có nghĩa vụ thi hành án có quyền hưởng di sản thừa kế, ít nhất là hàng thừa kế thứ nhất buộc phải mở thừa kế hoặc chia tài sản để bảo đảm thi hành án. Như thế sẽ góp phần quan trọng vào việc phòng, chống tham nhũng, bởi vì không thể để "hy sinh đời bố, củng cố đời con". Do đó cũng phù hợp với pháp luật dân sự là có quyền hưởng di sản thì có quyền thi hành nghĩa vụ cha đối với con hoặc ngược lại.
ĐBQH Nguyễn Thành Bộ (Thanh Hóa): Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự là đòi hỏi cấp thiết, khách quan

Để hạn chế tối đa việc người dân đi kiện hết sơ thẩm đến phúc thẩm, thậm chí đến giám đốc thẩm, đến khi có bản án có hiệu lực pháp luật nhưng hiệu quả thi hành án dân sự trên thực tế lại không cao, không thi hành được hoặc chỉ thi hành được một phần bản án khiến cho người dân lãng phí về thời gian, công sức và không muốn lựa chọn cách thức bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình bằng con đường tố tụng mà buộc phải lựa chọn những cách thức không hợp pháp khác, vì vậy nâng cao hiệu quả việc thi hành án dân sự là một đòi hỏi cấp thiết, khách quan. Do đó phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp khắc phục các nguyên nhân chủ quan, khách quan, trong đó việc sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2008 để nhằm tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển biến cơ bản, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, bảo đảm cho các bản án có hiệu lực pháp luật được thi hành kịp thời, đầy đủ trên thực tế, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Về thẩm quyền ban hành quyết định thi hành án. Điều 30 dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự cho thấy, thẩm quyền ra quyết định thi hành án được trao cho chánh án tòa án sơ thẩm khu vực, chánh án tòa án cấp tỉnh, chánh án tòa án nhân dân cấp quân khu. Theo đó, chánh án tòa án sơ thẩm khu vực cấp tỉnh, cấp quân khu cũng là người đề ra quyết định khác về thi hành án, như quyết định hoãn thi hành án, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ, trả lại đơn yêu cầu thi hành án và quyết định ủy thác thi hành án và các quyết định khác. Tôi cho rằng mặc dù quy định như dự thảo là bảo đảm nguyên tắc về lý luận, song quá trình thực hiện trong thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc nhất định, có thể đây là những nguyên nhân dẫn đến việc án tồn đọng. Bởi vì, theo quy định sau khi nhận được quyết định thi hành ánh do chánh án tòa án ban hành và tòa án chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự thì mọi hoạt động tổ chức thi hành bản án, quyết định và quyết định thi hành án của tòa án do chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự thực hiện. Do đó, việc kiểm soát về khả năng tài chính, nơi cư trú... hay nói cách khác là các điều kiện thi hành án của người phải thi hành án là do chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc kiểm soát. Nhưng khi có các điều kiện về hoãn thi hành án, đình chỉ, tạm đình chỉ, trả đơn yêu cầu thi hành án, ủy thác thi hành án thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự lại phải đề nghị chánh án tòa án xem xét, ra quyết định nêu trên, trong khi tòa án không phải là cơ quan kiểm soát các điều kiện để ban hành quyết định này. Nếu thực hiện theo quy định này, một mặt làm mất thời gian đối với cơ quan thi hành án cũng như tòa án, mặt khác khi ban hành các quyết định này sẽ phát sinh những trường hợp thiếu khách quan, hoặc có trường hợp ban hành chậm, dẫn đến việc khiếu nại của đương sự, quy định như dự thảo chỉ phù hợp khi cơ quan thi hành án dân sự trực thuộc ở tòa án như trước đây. Vì vậy, để bảo đảm hiệu quả, trên thực tế khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực, tôi đề nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu, sửa đổi theo hướng luật vẫn trao quyền cho chánh án tòa án ban hành quyết định thi hành án, đồng thời quy định luôn cơ chế ủy quyền của chánh án cho thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thực hiện và ban hành các quyết định khác như hoãn thi hành án, đình chỉ, tạm đình chỉ, trả lại đơn yêu cầu thi hành án và ủy thác thi hành án... để tránh những khó khăn, vướng mắc như đã nêu.
ĐBQH Phạm Văn Gòn (TP Hồ Chí Minh): Cần thay đổi tư duy, cách hiểu giai đoạn thi hành án dân sự

Về thủ tục thi hành án dân sự như hiện nay, có thể nói đang bị "hành chính hóa", bị giảm đáng kể đến hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Điều đáng lo ngại nhất là nó tạo ra cách hiểu giai đoạn thi hành án là một thủ tục bắt buộc để thi hành bản án quyết định của tòa án. Vì thế để tạo nên tâm lý chây lỳ, không tự nguyện thi hành bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà cứ chờ cho đến khi người thi hành án, người làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án thì mới tính. Nhưng khi ra đến cơ quan thi hành án thì các thủ tục mang tính hành chính làm giảm tính nghiêm minh của bản án pháp luật. Cho nên, kết quả thi hành án quyết định không cao. Có thể thấy đây là một hệ quả xấu do chính quy định trong Luật Thi hành án dân sự tạo nên. Do vậy, theo tôi việc sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2008 cần phải quán triệt tinh thần Điều 106 Hiến pháp năm 2013. Đó là bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng, cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Theo đó, cần thay đổi tư duy, cách hiểu giai đoạn thi hành án dân sự. Một điều dễ dàng nhận thấy đó là một bên đương sự không tự nguyện thi hành bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án nên bên còn lại mới yêu cầu cơ quan thi hành án. Nghĩa là một bên đương sự không tôn trọng pháp luật, không tự nguyện chấp hành bản án, quyết định của tòa án. Vì vậy giai đoạn thi hành án cần phải hiểu là giai đoạn cưỡng chế bản án, thi hành bản án, quyết định của tòa án. Cho nên phải xây dựng quy định mang tính cưỡng chế tư pháp, tính quyền lực bắt buộc với trình tự, thủ tục thi hành án đơn giản, hiệu quả, không phải là các thủ tục hành chính rườm rà và dành quá nhiều quyền không hợp lý cho người phải thi hành án như các quy định hiện nay. Có như thế mới bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Về xác minh điều kiện thi hành án, theo Luật Thi hành án dân sự hiện hành thì việc xác minh điều kiện thi hành án thuộc trách nhiệm của người thi hành án. Điều này gây nhiều khó khăn cho người được thi hành án, vì không ai có thể có điều kiện kinh tế để nhờ đi xác minh giúp. Trong quá trình xác minh lại gặp trở ngại, nhất là liên hệ đến các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương, các tổ chức tín dụng, ngân hàng. Nơi đây họ yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền thì các đơn vị này mới cung cấp, nên việc không được cung cấp kết quả sẽ kéo dài vụ việc thi hành án. Có trường hợp người phải thi hành án đã chuyển dịch tài sản cho người khác làm cho vụ án bế tắc, không thi hành được, là một trong những nguyên nhân làm lượng án tồn tăng lên. Do đó, tôi nhất trí chuyển trách nhiệm xác minh điều kiện thi hành án thuộc chấp hành viên và miễn phí xác minh. Chỉ cần quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên và các bên liên quan, xác định rõ trách nhiệm và hình thức xử lý đối với chấp hành viên khi không thực hiện đúng trách nhiệm xác minh.
ĐBQH Trương Thị Huệ (Thái Nguyên): Phân loại án có điều kiện thi hành là khâu rất quan trọng trong quá trình thực hiện thi hành án

Phân loại án có điều kiện thi hành là khâu rất quan trọng trong quá trình thực hiện thi hành án. Vì thông qua phân loại chúng ta không thể loại trừ có thể biến án có điều kiện trở thành không có điều kiện thi hành và đồng nghĩa với việc người phải thi hành án trở thành người chưa hoặc không phải thi hành án. Điều đó sẽ ngược lại với người được thi hành án. Do vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để quá trình phân loại này ngày càng khách quan và minh bạch. Trên thực tế hiện nay việc phân loại cơ bản do cơ quan thi hành án cấp huyện thực hiện có sự tham gia của chính quyền cấp xã, song ở cấp này cũng tồn tại nhiều khó khăn, bất cập như là sát dân nên còn có nể nang, né tránh, có sự ràng buộc về anh em, dòng họ và cũng còn cả vấn đề hạn chế về trình độ, năng lực. Bên cạnh đó, có sự kiểm sát của Viện kiểm sát và giám sát của HĐND, nhưng cũng chỉ giám sát được một số vụ việc cụ thể, chưa thể kiểm tra hết được. Vì vậy, để minh bạch trong công đoạn này, tôi kiến nghị cần đưa thêm phòng tư pháp cấp huyện vào là một trong thành phần cùng với cơ quan thi hành án cấp huyện để thực hiện quá trình kiểm tra, xác minh, phân loại án có điều kiện hoặc chưa có điều kiện thi hành.
Thứ hai, trên thực tế tuy không nhiều, song địa phương nào cũng có một số tình trạng như sau: một là công dân được mua tài sản đấu giá qua thi hành án đã nộp đủ tiền hoặc một phần tiền, song vì rất nhiều lý do khác nhau lại không nhận được tài sản. Loại này làm thiệt hại cho người mua tài sản của thi hành án hoặc trong quá trình kê biên tài sản để thi hành án có sự sai sót, dẫn đến hoặc kê biên lớn hơn số tài sản mà tòa tuyên hoặc thanh lý lớn hơn số tài sản phải kê biên. Loại này làm thiệt hại cho người phải thi hành án, trong trường hợp người phải thi hành án là các cơ quan nhà nước có tài khoản và hưởng kinh phí từ ngân sách nhà nước. Trường hợp này, cơ quan thi hành án rất khó thực hiện, vì người đứng đầu để xảy ra sai phạm thường đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác, người kế nhiệm không muốn thi hành án, vì định mức ngân sách cho mỗi cơ quan, đơn vị thường ở mức trung bình để chi cho hoạt động thường xuyên của cơ quan, đơn vị. Nếu phải trừ đi một khoản sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị. Những trường hợp như trên để xảy ra thường là lỗi tổng hợp của nhiều cơ quan nhà nước như tòa án, thi hành án, chính quyền địa phương... Do vậy, người dân muốn lấy lại được phần tài sản hoặc giá trị chính đáng của mình thì phải kiện ra tòa, rất nhiều trường hợp rất lâu mới được thụ lý, xử lý đi, xử lại, hết sơ thẩm, phúc thẩm, lúc thì hủy đi vì thiếu chứng cứ, lúc thì hủy đi vì trình tự, thủ tục tố tụng chưa đúng... Có trường hợp hàng chục năm chưa lấy được tài sản chính đáng của mình. Để tránh những trường hợp như trên, tôi kiến nghị Ban soạn thảo nên thiết kế một điều trong luật quy định những trường hợp như trên trong thời hạn nhất định chưa phân xử được, nhà nước cần trích ngân sách trả cho người dân, sau đó các cơ quan nhà nước phân xử và thu hồi lại sau. Có thế mới bảo đảm công bằng cho người dân và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.