Tham tán thương mại và vai trò ngoại giao kinh tế
Hội nghị Tham tán thương mại 2008 do Bộ Công Thương tổ chức vừa diễn ra tại Hà Nội, đã đề xuất nhiều giải pháp liên kết giữa tham tán thương mại và cộng đồng doanh nghiệp, góp phần đạt mục tiêu xuất khẩu trong năm nay. Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh: Các tham tán thương mại cần chủ động trong việc làm cầu nối giữa thị trường trong nước và ngoài nước, và là địa chỉ gần gũi hơn nữa cho doanh nghiệp trong nước thâm nhập thị trường nước ngoài.
Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài được ví như người bắc cây cầu nối kết giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, góp phần phát triển thị trường xuất nhập khẩu. Ý thức được vai trò quan trọng này, Chính phủ và Bộ Công Thương đã thực hiện nhiều cải cách để tăng hiệu quả hoạt động của các thương vụ tại nước ngoài. Do đó, số lượng thương vụ và chi nhánh thương vụ dù chỉ có hơn 60 cơ sở nhưng được phân khúc, tập trung tại những phân khu thị trường quan trọng và tỏa rộng tới các châu lục trên thế giới. Sự liên kết chặt chẽ giữa thương vụ với các Bộ, ngành, cơ quan chức năng, doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm giúp thương vụ hoạt động hiệu quả. Có thể thấy rõ doanh nghiệp nước ngoài tìm hiểu cơ hội đầu tư vào nước ta thường đến các thương vụ để thu thập thông tin bước đầu. Các doanh nghiệp trong nước khi “lạ nước lạ cái” ở nước ngoài cũng nhờ rất nhiều vào các thương vụ để xúc tiến thương mại, trao đổi hàng hóa đạt hiệu quả cao. Hơn nữa, xu hướng ngoại giao kinh tế đang trở nên phổ biến nên việc cung cấp thông tin cập nhật, cụ thể từ các thương vụ tới Bộ, ngành, cơ quan chức năng, doanh nghiệp hiện đã được nhiều nước quan tâm đầu tư.
Thế nhưng, hiệu quả hoạt động của các tham tán thương mại vẫn là điểm yếu trong công tác kinh tế đối ngoại được đưa ra trong Hội nghị Tham tán thương mại 2008. Đó là chưa nắm bắt được cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là việc tận dụng những kết quả đàm phán về mở cửa thị trường để cung cấp thông tin cho doanh nghiệp một cách kịp thời. Điển hình như trong khu vực mậu dịch tự do AFTA của các nước ASEAN, tỷ lệ sử dụng Form D ưu đãi hiện nay rất thấp, chỉ đạt 10%, nhưng một số thương vụ không đưa ra được đề xuất cụ thể để tăng tỷ lệ sử dụng ưu đãi này đối với doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam; Không nắm được tỷ lệ sử dụng ưu đãi này trong các doanh nghiệp nước sở tại khi xuất khẩu vào Việt Nam để có cơ sở phân tích, so sánh. Không chỉ thế, việc doanh nghiệp các nước láng giềng như Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia... tận dụng những ưu đãi của các khu vực mậu dịch tự do AFTA hay WTO như thế nào dường như chỉ là một sự hiểu ngầm giữa các doanh nghiệp, còn số liệu cụ thể ra sao cũng vẫn chưa được đưa ra. Về những vấn đề tồn tại của hệ thống các thương vụ Việt Nam tại nước ngoài, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng cho rằng: Sự chủ động của tham tán thương mại tại nhiều nước vẫn còn hạn chế, mới chủ yếu chỉ tập trung vào xúc tiến xuất khẩu, trong khi đó các thông tin về kinh tế nói chung, đến đầu tư thương mại nói riêng lại có rất ít thông tin. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa tham tán và các ngành, địa phương trong công tác xúc tiến thương mại chưa thực sự hiệu quả. Đây là điều cần lưu ý khắc phục trong những năm tiếp theo.
Để khắc phục những tồn tại về mối liên kết giữa các tham tán thương mại với cộng đồng doanh nghiệp và các ngành, địa phương, các chuyên gia đề nghị cần tăng mối liên kết giữa các Hiệp hội, ngành hàng và thương vụ. Đây là giải pháp phù hợp, bởi với chức năng và ảnh hưởng của các Hiệp hội, ngành hàng càng sâu rộng hiện nay, việc nắm thông tin doanh nghiệp, tâm lý người tiêu dùng trong nước với những mặt hàng, cũng như các chính sách phát triển, khuyến khích đầu tư của Chính phủ không khó. Bên cạnh đó, thương vụ cũng là đầu mối cung cấp thông tin về tâm lý tiêu dùng, các tiêu chuẩn với chất lượng hàng hóa, pháp luật, chính sách phát triển, khuyến khích đầu tư... tại nước sở tại. Hiệp hội ngành hàng và thương vụ cùng là hai đầu mối thu thập, cung cấp thông tin. Đây cũng là hai cơ quan đã quen mặt với doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Như vậy, hai cơ quan này cần nỗ lực để tăng hiệu quả hoạt động và thống nhất phương án phối hợp để hỗ trợ doanh nghiệp xúc tiến thương mại, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, bảo đảm xuất khẩu bền vững.
Mục tiêu xuất khẩu hàng hóa của nước ta trong năm nay là sẽ đạt trên 59 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2007. Để thực hiện mục tiêu này, bên cạnh nỗ lực của các doanh nghiệp thì các cơ quan thương vụ, các tham tán thương mại Việt Nam tại nước ngoài cần phát huy hơn nữa vai trò cầu nối với thị trường, hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp trong việc tiếp cận, thâm nhập thị trường sở tại.
PHƯƠNG THỦY