Chuẩn hoá, sản xuất theo quy trình hữu cơ
Nằm trong vùng chè đặc sản Tân Cương, chè Phúc Trìu có tiếng trên thị trường từ nhiều năm qua. Gia đình anh Mai Tiến Dũng (sinh năm 1983, xóm Khuôn, xã Phúc Trìu, TP Thái Nguyên) đã có nghề truyền thống làm chè từ lâu đời.
Xác định chỉ có sản xuất an toàn, sản phẩm chất lượng mới chinh phục được thị trường, anh Dũng đã chọn sản xuất theo quy trình hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao. Hiện vườn chè diện tích 1ha, giống chè lai xanh F1 cho thu hái hơn 2 tạ búp khô, chủ yếu bán sản phẩm dạng quà tặng, quà biếu, đầu tư vào bao bì nhãn mác, giá từ 400 nghìn đồng đến 2 triệu đồng/kg.
Về chi phí, mỗi lứa hái trong 3 ngày, tổng cộng 60 công. Giá tiền công thuê hái chè búp tiêu chuẩn 1 tôm 2 lá giá 18 nghìn - 20 nghìn đồng/kg búp tươi, chè tôm nõn giá 30 nghìn đồng/kg, chè đinh từ 60 nghìn đến 80 nghìn đồng/kg. Người hái thuê giỏi có thể thu nhập trên 500 nghìn đồng/ngày. Dù tay nghề sao chè búp, chè nõn vào hàng “đẳng cấp” nhưng anh Dũng cũng như hầu hết các gia đình khi làm chè đinh đều phải thuê sao tại cơ sở Thắng Hường (xóm Hồng Thái 2, xã Tân Cương) với giá 90 nghìn đồng/kg thành phẩm chè khô.
Anh Dũng cho biết: Cứ 5,5kg chè tươi mới được 1kg chè khô, thành phẩm của 1kg chè đinh gồm công hái 500 nghìn đồng, công sao 90 nghìn đồng, bao gói 120 nghìn đồng, giá bán ra thị trường 2 triệu đồng không hề đắt so với chi phí bỏ ra. Bởi, chè đinh chỉ làm được 03 lứa vào mùa thu, mỗi lứa khoảng 60kg, phải hết mưa ngâu mới làm được. Chè đinh làm từ chè lai xanh (còn có tên là Thanh Trà) có màu nước xanh ánh vàng rất đẹp, hương thơm dìu dịu thoang thoảng, khi uống cảm nhận được rõ hương thơm đang lan tỏa, vị ngọt hậu và hương bền sau khi uống nhiều giờ nên được nhiều người chọn làm chè biếu, xách tay đi nước ngoài vào mỗi dịp Tết nguyên đán. Đây cũng là điều đòi hỏi anh Dũng phải tuân thủ sản xuất, chế biến theo đúng tiêu chuẩn quốc tế về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Hệ thống tự động hóa hoàn chỉnh đầu tiên tại Thái Nguyên
Khẳng định sở dĩ có khách hàng, có thị trường nên mới dám “chơi lớn” chi hơn 100 triệu cho riêng hệ thống tưới, phun tự động, anh Dũng cho biết trong thời gian còn làm việc trong cơ quan nhà nước, anh có điều kiện đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người thuộc nhiều lĩnh vực. Từ những mối quan hệ đó, anh đã giới thiệu chè đặc sản của Thái Nguyên và dần dần thiết lập được hệ thống khách hàng bền vững. Trên cơ sở đầu ra bền vững, anh Dũng đã đầu tư để tập trung sản xuất dòng sản phẩm chè cao cấp, chất lượng cao cung cấp cho khách hàng đồng thời là người quen biết.
Kiến thức về công nghệ thông tin, khoa học kỹ thuật đã được anh Mai Tiến Dũng ứng dụng triệt để vào vườn chè với hệ thống tưới tiết kiệm và hệ thống phun thuốc trừ sâu thông minh, quy trình chăm sóc chè được tự động hóa cao.
Rất tâm đắc với hệ thống phun thuốc trừ sâu tự động mà theo anh là hiện đại nhất miền bắc, chưa nơi nào có, anh Dũng so sánh: Bình quân mỗi lứa chè phải phun thuốc bảo vệ thực vật 5 - 6 lần, tiền công thuê 35 nghìn - 40 nghìn đồng/bình. Diện tích chè như của gia đình tôi phải phun đến 30 bình mỗi lần, không “ông nào” có sức khoẻ để phun xong trong một ngày, thêm nữa mùa hè nhiều loại sâu phải soi đèn pin để phun đêm, không ai nhận làm vào giờ đó, vì thế không chủ động được thời gian phun thuốc nên không diệt trừ được sâu. Với hệ thống phun tự động này, chỉ mất từ 5-10 phút pha thuốc, thời gian phun trong vòng từ 1-2 phút. Mặc dù đầu tư ban đầu 60 triệu đồng nhưng tuổi thọ đến 10 năm, rẻ hơn thuê người làm rất nhiều. Thêm vào đó, phun tự động 1 lần 300l/ha tiết kiệm 200l so với phun tay. Nhờ chủ động về thời gian, việc diệt trừ sâu hại rất hiệu quả, không chỉ tiết kiệm chi phí mà chè tăng năng suất, chất lượng rõ rệt. Khi giá vật tư đầu vào tăng, nhưng giảm chi phí thì lợi nhuận vẫn tăng.
Dùng công nghệ tưới tiết kiệm, anh Dũng cũng tự chế phân bón gốc bằng các loại cá ngâm ủ cùng đỗ tương, phân bón lá bằng lòng đỏ trứng gà và mật ong ủ vi sinh, mỗi lứa tốn khoảng 300 quả trứng, sau khi trừ chi phí, anh thu lãi gần 30 triệu đồng. Hiện, anh đang trồng thêm hoa và cây cảnh, thiết kế đồi chè thành một điểm phục vụ khách tham quan du lịch và thưởng thức văn hóa trà Thái Nguyên.
Anh Mai Tiến Dũng cho rằng để làm kinh tế nông nghiệp đòi hỏi người nông dân phải có tri thức để ứng dụng khoa học kỹ thuật, về tìm hiểu và tiếp cận thị trường. Ví dụ đơn giản như công việc hái chè, nếu không nắm vững kỹ thuật, không thể hướng dẫn hái chè đinh đúng cách, bởi nếu vặt sẽ dễ làm rách lá hoặc bấm thì sẽ làm bị thâm cuống, kỹ thuật đúng phải là bẻ, tước ngọn chè. Cùng với kinh nghiệm về thời tiết, mùa vụ do cha ông để lại, ngày nay người làm chè còn có thể sử dụng các thiết bị thông minh, nhờ đến sự hỗ trợ của các chuyên gia, nhà khoa học nông nghiệp để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, quan tâm đến việc phải làm ra những sản phẩm thị trường yêu cầu, từ chỗ chỉ bán cái mình có sang bán cái thị trường cần.