Có chính sách đặc thù khi triển khai dự án
Phát biểu tại Tổ thảo luận, ĐBQH Nguyễn Ngọc Tuấn, Phó trưởng Đoàn ĐBQH thành phố, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc triển khai dự án đường sắt tốc độ cao trục Bắc - Nam. Theo đại biểu, trong quá trình thực hiện cần tập trung triển khai hiệu quả từng phân đoạn, trước mắt là từ ga đầu mối Ngọc Hồi của Hà Nội và tại thành phố Hồ Chí Minh, sau đó mới tính đến phương án kết nối các ga. Đồng thời, dự án cần chú trọng việc chuyển giao công nghệ khi triển khai để chủ động trong vận hành sau này.
ĐBQH Nguyễn Anh Trí cho rằng, chủ trương đầu tư dự án này rất cần thiết, là nguyện vọng của đại đa số người dân. Hệ thống đường sắt tốc độ cao sẽ đáp ứng nhu cầu giao thương với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, khi nghiên cứu tài liệu, đại biểu đánh giá vẫn còn một số băn khoăn khi triển khai dự án liên quan đến lưu lượng, thời gian vận chuyển hàng hóa nông sản, thủy sản trong bao lâu để bảo đảm chất lượng. Đồng thời, việc đặt vị trí các nhà ga ở đâu cho hợp lý. Đặc biệt, sau khi dự án đi vào hoạt động, việc vận hành sao cho hiệu quả, bởi kinh phí vận hành dự kiến đang ở mức rất cao.
Đáng chú ý, ĐBQH Nguyễn Anh Trí phân tích, nếu được Quốc hội thông qua chủ trương thì dự án khởi công vào năm 2027 và khánh thành vào năm 2035. Tuy nhiên, đại biểu cho rằng, nếu thực hiện càng nhanh thì lợi ích, hiệu quả mang lại càng lớn. Chúng ta có đủ nguồn lực về con người, phương tiện kỹ thuật, kinh phí để có thể đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án hơn, phục vụ nhu cầu đi lại của người dân và phát triển kinh tế - xã hội.
Khẳng định đây là thời điểm hết sức chín muồi để triển khai dự án, ĐBQH Nguyễn Phương Thủy đánh giá đây là dự án chưa có tiền lệ và rất đặc biệt nên cần có chính sách đặc thù, đặc biệt để triển khai nhanh nhất, đỡ tốn kém nhất.
Cần chuyển giao công nghệ khi triển khai dự án
Cũng tại thảo luận Tổ 1, đa số ý kiến đều đánh giá đây là dự án bảo đảm cân bằng phương thức vận tải, sự phát triển bền vững, sau khi hoàn thành góp phần tăng cường kết nối vùng, miền, các cực tăng trưởng, tạo động lực lan tỏa, mở ra không gian phát triển mới; đảm bảo nhu cầu vận chuyển hành khách trên hành lang Bắc - Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội...
ĐBQH Hoàng Văn Cường kỳ vọng, việc đầu tư tuyến đường sắt này sẽ tạo ra sự kết nối, phát triển lan tỏa trên trục hành lang Bắc - Nam sẽ tháo gỡ nút thắt, điểm nghẽn về giao thông, logistic; tạo sự kết nối xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường châu Âu, Trung đông, Bắc Á. Tuy nhiên, đại biểu cũng băn khoăn với đề xuất của Chính phủ khi tuyến đường sắt này chủ yếu phục vụ vận tải hành khách, còn hàng hóa chỉ là đa dụng trong trường hợp cần thiết, trong khi đó, hệ thống đường sắt cũ (khổ 1m) nên không thể liên thông với hệ thống đường sắt quốc tế (1,43m). Do đó, đề nghị trong nghị quyết của Quốc hội cần nêu rõ đây là tuyến đường sắt lưỡng dụng, vừa vận tải hành khách và vận tải hàng hóa để liên thông quốc tế.
Về phương thức đầu tư, đại biểu cho rằng, rút kinh nghiệm quá trình đầu tư tại 3 tuyến đường sắt đô thị (Hà Nội có 2 tuyến, thành phố Hồ Chí Minh có 1 tuyến) đều kéo dài chục năm chưa hoàn thành, trong khi đó đường dây 500kV mạch 3 đã thi công trong thời gian rất ngắn. Ngoài ra, theo đại biểu, việc chuyển giao công nghệ phụ thuộc rất nhiều vào thị phần đường sắt.
Theo tính toán, thị phần đường sắt của Việt Nam khoảng 150 tỷ USD, có đủ khả năng chuyển giao công nghệ, do đó đề nghị trong Nghị quyết của Quốc hội quy định theo hướng: Đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam phải thực hiện chuyển giao công nghệ cho Việt Nam và chúng ta phải làm chủ trong quá trình đầu tư, từ đó sẽ làm chủ trong việc đầu tư hệ thống đường sắt khác mà không cần mua sản phẩm sẵn có bởi mua sản phẩm sẵn có rẻ hơn, chuyển giao công nghệ đắt hơn, nhưng đắt một lần, sẽ mãi bền vững về sau.