Toà án tỉnh Tuyên Quang bác đơn kiện của dân, TAND Cấp cao chấp nhận kháng cáo
Phản ánh đến Báo Đại biểu Nhân dân, ông Trần Việt Trung (sinh năm 1972, trú tại tổ 13 phường Nông Tiến, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang) cho biết, gia đình ông có khoảng 20.000m2 đất tại phường Nông Tiến do ông Trần Văn Quỳnh là bố đẻ của ông Trung khai phá và sử dụng ổn định, lâu dài từ năm 1988 đến nay, không có tranh chấp đã được xác định trên bản đồ địa chính.
Ngày 15.11.2017, UBND thành phố Tuyên Quang ra Quyết định số 449/QĐ – UBND về việc thu hồi 22.331,4 m2 đất tại phường Nông Tiến để xây dựng công trình Dự án đầu tư xây dựng cầu Tình Húc vượt sông Lô, thành phố Tuyên Quang (địa phận phường Nông Tiến). Trong đó, gia đình ông Trung bị thu hồi 2.754,5 m2 đất.
Đối với việc thu hồi đất để xây cầu, ông Trung hoàn toàn nhất trí về chủ trương xây dựng cầu Tình Húc và tạo mọi điều kiện để công trình sớm được thi công. Tuy nhiên, theo phương án bồi thường tại Quyết định số 450/QĐ- UBND của UBND TP Tuyên Quang, gia đình ông chỉ được bồi thường vật kiến trúc và hoa màu mà không được bồi thường đất. Cho rằng phương án đền bù không thỏa đáng, ông Trung đã làm đơn khiếu nại đối với Quyết định 450/QĐ – UBND của UBND thành phố Tuyên Quang.
“Đối với khu đất nêu trên, gia đình tôi đã đầu tư rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc để cải tạo đất, giờ thu hồi mà không đền bù đất khiến gia đình thiệt hại lớn về kinh tế”, ông Trung chia sẻ.
Sau khi nhận được đơn khiếu nại của ông Trung, ngày 23.4.2018, Chủ tịch UBND TP Tuyên Quang ban hành Quyết định số 1039/QĐ-UBND bác toàn bộ khiếu nại.
Mong muốn được xem xét quyền lợi chính đáng, ông Trung đã làm đơn khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang. Ngày 18.7.2019, tại Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2019/HC-ST Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã bác đơn khởi kiện của ông Trần Việt Trung.
Ông Trung tiếp tục kháng cáo toàn bộ Bản án và đã được Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội chấp nhận.
Qua xem xét các tài liệu chứng cứ, ngày 25/05/2020, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã ra Bản án số 101/2020/HC – PT, quyết định sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2019/HC-ST ngày 18/07/2019 của của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang. Hủy Quyết định số 1039/QĐ- UBND ngày 23/04/2018 của Chủ tịch UBND thành phố Tuyên Quang về việc giải quyết khiếu nại của ông Trần Việt Trung và hủy một phần Quyết định 450/QĐ – UBND của UBND thành phố Tuyên Quang. Đồng thời yêu cầu UBND thành phố Tuyên Quang và chủ tịch UBND thành phố Tuyên Quang thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
TAND Cấp cao tại Hà Nội phân tích rõ những căn cứ để chấp nhận kháng cáo của người dân
Tại bản án số 101/2020/HC – PT của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong phần đưa ra nhận định đã nêu rõ, về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất, đăng ký khê khai việc sử dụng đất đối với diện tích đất mà gia đình ông Trung cho rằng gia đình ông khai phá từ trước năm 1993, diện tích khoảng 20.000m2 tại phường Nông Tiến: ông Trần Văn Quỳnh là bố của ông Trần Việt Trung là người khai phá diện tích đất từ trước năm 1993 và sử dụng từ đó đến nay là có thật, được các bên thừa nhận. Tại Bản đồ xã Nông Tiến tỉ lệ 1/1000 bản scan số 2 mảnh số 2 được Ban quản lý ruộng đất tỉnh Tuyên Quang xác nhận (trước khi đo đạc địa chính năm 1995) thì thừa 168A diện tích 3.084 m2 (Đm) và thửa 179 diện tích 8.568 M2 (Đm) đứng tên ông Quỳnh.
Đặc biệt, theo nhận định của Toà, tại bản đồ địa chính số 46, đã được Sở địa chính (nay là Sở tài nguyên và Môi trường) duyệt tháng 12.1997 thể hiện thửa 53 diện tích 11.370m2, thửa 54 diện tích 2.700m (không ghi tên người sử dụng), nhưng tại sổ mục kê 2 thể hiện tên người sử dụng đất là ông Trần Văn Quỳnh.
Xem xét toàn bộ Tờ bản và đồ địa chính số 46 nêu trên thì các thửa đất liền kề khác cũng không ghi tên người sử dụng đất, nhưng tại sổ mục kê đều thể hiện tên người sử dụng đất.
Việc UBND thành phố Tuyên Quang lại xác định do không đứng tên người sử dụng đất theo bản đồ địa chính số 46 nêu trên, nên xác định diện tích đất mà gia đình ông Trung cải tạo từ năm 1988 đến năm 1992 thì gia đình ông Trung sử dụng ổn định với mục đích trồng cây hàng năm là do UBND phường Nông Tiến quản lý là không phù hợp với thực tế sử dụng đất của gia đình ông Trung và thể hiện tại bản đồ địa chính.
Bên cạnh đó, tại hợp đồng không số ngày 16.12.2014, hợp đồng thầu đất công ích để sản xuất nông nghiệp thể hiện ông Trung thầu 15.013m đất của UBND phường nông Tiến thời hạn 05 năm kể từ ngày 16.12.2014 thì diện tích đất thầu không có số thửa, Tờ bản đồ số 46+47 địa chỉ thửa đất tại tổ 13, phường Nông Tiến.
UBND thành phố Tuyên Quang xác định diện tích đất tại thửa số 53 và 54 nêu trên là diện tích mà chính gia đình ông Trung thầu của UBND phường Nông Tiến là chưa đủ căn cứ.
Mặt khác, theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 19.10.2018 của Tòa án cấp sơ thẩm, hiện trạng sử dụng đất của gia đình ông Trung chưa được làm rõ và hiện trạng sử dụng đất này phù hợp với trình bày của ông Trung là trừ diện tích đất thầu của UBND phường Nông Tiến thì gia đình ông còn khoảng 20.000m đất do đã khai hoang trước năm 1993.
Cũng như việc gia đình ông Trung khai phá đất và sử dụng cho đến nay (đã trong cây lâu năm) và đã được xác định trên bản đồ địa chính. UBND thành phố Tuyên Quang xác định diện tích đất gia đình ông Trung khai phá trước năm 1993 là diện tích bãi bồi ven sông Lô do UBND phường Nông Tiến quản lý và gia đình ông Trung đã thầu diện tích đất khai hoang của chính gia đình mình khai hoang là chưa đủ căn cứ.
Ngoài ra, đối với việc ông Trung yêu cầu xem xét tiền công đầu tư trên đất, làm màu mỡ diện tích đất thầu khi Nhà nước thu hồi đất để làm cầu Tình Húc vượt sông Lô, Toà án cho rằng, theo Hợp đồng thầu đất công ích để sản xuất nông nghiệp ngày 16.12.2014 (BL112) giữa UBND phường Nông Tiến và ông Trung thuê 15.013m đất thời hạn từ ngày 16.12.2014 đến ngày 15.12.2019 thì tại Quyết định 450/QĐ-UBND ngày 15.11.2017 của Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang về việc phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất giải phóng mặt bằng xây dựng công trình Dự án đầu tư xây Đi dựng cầu Tình Húc vượt sông Lô, thành phố Tuyên Quang (địa phận phường Nông Tiến) chưa xem xét về phần này, do thời hạn thầu vẫn còn cũng như thực tế ông Trung có đầu tư công sức và tiền để cải tạo, làm đất màu mỡ và có công trình, kiến trúc (đào ao, khoan giếng) phục vụ việc canh tác; để xem xét triệt để tin trong cùng vụ án này thì mới đảm bảo quyền lợi cho gia đình ông Trung và phần này phù hợp với quan điểm giải quyết vụ án của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Chính từ những “tồn tại” nêu trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy cần chấp nhận kháng cáo của ông Trung, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trung.
TAND Cấp cao đã tuyên bảo vệ quyền lợi người dân, đại diện chính quyền TP Tuyên Quang vẫn “than” khó
Liên quan đến vụ việc khiếu kiện kéo dài nêu trên, để làm rõ, Báo Đại biểu Nhân dân đã có cuộc trao đổi với UBND thành phố Tuyên Quang do ông Vũ Trọng Huấn, Chánh Văn Phòng UBND thành phố Tuyên Quang làm đại diện phát ngôn.
Tại cuộc trao đổi này, ông Huấn cho rằng, điều vướng mắc nhất trong vụ việc đó là việc ông Trần Việt Trung đang kiến nghị về việc cần có sự bồi thường, hỗ trợ chi phí công cải tạo đất đối với hơn 2.700 m2 đất và hơn 2.000m2 đất bồi ven sông.
Tuy nhiên, theo ông Huấn, đối với phần diện tích 2.700m2, quan điểm của thành phố Tuyên Quang đây là diện tích đất 5% do UBND xã quản lý và có hợp đồng thầu với ông Trần Văn Quỳnh (bố của ông Trung). Đối với diện tích đất 2.000m2 đất bồi ven sông theo quy định hiện hành cũng thuộc UBND sở tại quản lý nên không đủ căn cứ để tính bồi thường, hỗ trợ như ông Trung kiến nghị.
Bên cạnh đó, ông Huấn cho biết, trường hợp khi ông Trung có thể đưa ra các giấy tờ để chứng minh công sức cải tạo đất UBND mới có thể có cơ sở để tính phần bồi thường, hỗ trợ. Trường hợp ông Trung khẳng định không có các giấy tờ về việc chứng minh công sức cải tạo đất thành phố cũng sẽ có phương án.
Đáng chú ý, Chánh Văn phòng UBND thành phố Tuyên Quang cho biết, trong Bản án của Tòa phúc thẩm không nói rõ thành phố Tuyên Quang sai ở cái gì, chỉ nói UBND thành phố cần phải làm đúng theo nhiệm vụ, công vụ quy định của pháp luật, không chỉ rõ việc bồi thường là sai hay đúng mà chỉ nói cần xem xét lại việc hỗ trợ, bồi thường, chi phí công cải tạo đất cho ông Trần Việt Trung.
Một vấn đề quan trọng khác đó là phần diện tích đất còn lại ngoài thu hồi, ông Trần Việt Trung mong muốn được cơ quan chức năng xác nhận để cấp quyền sử dụng đất. Theo ông Vũ Trọng Huấn, đối với những phần diện tích ngoài thu hồi, ông Trung có thể lên UBND phường kê khai để các cơ quan chức năng tiến hành thẩm định hồ sơ, đo đạc sau đó mới có thể tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nếu đủ điều kiện.
Báo điện tử Đại biểu Nhân dân sẽ tiếp tục giám sát và thông tin kết quả thực thi pháp luật của các cơ quan liên quan đến bạn đọc và cử tri cả nước.