Sự kiện được tổ chức nhân kỷ niệm 133 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19.5.1890 - 19.5.2023) và 80 năm ngày Bác Hồ viết Ngục trung nhật ký (1943 - 2023).
Theo nhà nghiên cứu Hán học, PGS.TS. Lê Văn Toan, Nhật ký trong tù đến với bạn đọc Việt Nam và thế giới hết sức long đong, thậm chí từng có người cho rằng tập thơ không phải do Hồ Chí Minh sáng tác. Những ngụy biện này đã được các nhà khoa học phản bác và chứng minh bằng thực tế về sức sống lâu bền của tác phẩm suốt 80 năm nay.
Tác phẩm từ lâu đã được công chúng trong nước và thế giới đón nhận, tuy nhiên có băn khoăn tại sao được viết bằng tiếng Hán. Về vấn đề này, PGS.TS. Lê Văn Toan nhấn mạnh, có 5 lý do. Thứ nhất, Bác Hồ từ bé đã học tiếng Hán rất giỏi, năm 12 tuổi, Người từng có câu đối: Chung sơn vượng khí thành kiên cố/ Trắc Lĩnh đa vân thị lão niên (Núi Chung khí vượng nên bền vững, Non Lĩnh nhiều mây ắt lâu đời).
Thứ hai, Bác đã có 10 năm hoạt động tại Trung Quốc và trong thời gian này luôn dùng chữ Hán. Các nhà nghiên cứu Việt Nam và Trung Quốc đã tổng hợp được 37 bài thơ chữ Hán ngoài 133 bài thơ trong tập Nhật ký trong tù, trong đó có bài Nguyên tiêu, Báo tiệp… rấtnổi tiếng.
Thứ ba, hơn một năm ở trong tù được hiểu như "Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại" (Một ngày trong nhà giam dài bằng nghìn năm ở bên ngoài). Người đã viết Tứ cá nguyệt liễu (Bốn tháng rồi) với khổ thơ đầu: Một ngày tù nghìn thu ở ngoài/ Lời nói người xưa thực không sai/ Sống chẳng ra người vừa bốn tháng/ Khiến mình tiều tuỵ còn hơn mười năm. Đây cũng là thời gian đất nước trong vòng nô lệ, cần người tài giúp sức, mà Bác thì ở trong tù, không biết làm gì…
Thứ tư, hơn một năm trong tù, mọi liên hệ giữa Bác với quê nhà Việt Nam không có, cho nên đây có thể là một nguyên nhân cần bí mật, Bác cần giữ tung tích.
Thứ năm, thời gian nhàn rỗi, Bác muốn dùng chữ Hán để viết nhật ký, để rèn trí nhớ, tư duy, bởi mỗi chữ Hán là một bức tranh, ở đó người ta liên tưởng đến mây nước trăng hoa sông suối; liên tưởng mối quan hệ này với mối quan hệ khác, để tự rèn mình.
Nhận xét về bản phỏng dịch của nhà thơ Quách Tấn, PGS.TS. Lê Văn Toan cho rằng, điều lý thú ở chỗ: Quách Tấn là một nhà Nho, song lại viết chữ Hán. Với bản dịch này, những trang thơ của Quách Tấn được dịch và thể hiện theo lối mới lạ, độc đáo cho độc giả thêm hiểu và trân trọng hơn về tài năng dịch thuật, đặc biệt là về tình cảm của thi sĩ Quách Tấn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
Nhà sử học Dương Trung Quốc kể lại quá trình ông được gặp nhà thơ Quách Tấn năm 1978, trong chuyến sưu tầm tài liệu, sách báo cũ tại Nha Trang, Khánh Hòa. Ông nhớ nhất là khi cụ Quách Tấn cho xem một tập sách bọc bìa bằng gấm, đó là những bài thơ viết bằng chữ Hán xen kẽ với lời dịch quốc ngữ.
“Quách Tấn nói với tôi: đây là tập thơ chữ Hán của Cụ Hồ. Năm sáu mươi, có một người bạn ở nước ngoài gửi về cho tôi một tập thơ chữ Hán của Cụ do ngoài Hà Nội in. Tôi cảm Cụ Hồ là một nhà thơ nên tôi đọc kỹ phần dịch ra quốc ngữ do các bậc túc nho ngoài Bắc dịch, thấy có nhiều điều hay nhưng cũng có điều chưa thật ưng ý. Vả lại, với cái thú của người vốn thích dịch thơ Đường nên tôi cất công ngồi dịch lại”, nhà sử học Dương Trung Quốc kể.
Ông cho biết thêm: “Năm 1992, nghe tin cụ Quách Tấn qua đời, tôi có viết một bài báo nhắc lại kỷ niệm buồn về cụ. Nhờ thế vài năm sau có dịp vào Nha Trang đến lại ngôi nhà ở Chợ Đầm, tôi được ông Quách Giao, con của cụ Quách Tấn, cảm những điều tôi viết về cha mình nên tặng tôi một bản sao cuốn sách chép tập thơ Ngục trung nhật ký và những bản dịch của Quách Tấn. Đến lúc đó tôi mới thực sự được đọc những bản dịch của cụ”.
Các diễn giả nhận định, giá trị lịch sử của tác phẩm gắn với thời kỳ đất nước đấu tranh giành độc lập dân tộc, gắn với con người lịch sử Hồ Chí Minh. Bản phỏng dịch của nhà thơ Quách Tấn khiến chúng ta học thêm nhiều điều, về vẻ đẹp của chữ Hán lâu nay vẫn được ví như bông hoa duyên dáng trong dòng văn học Á Đông.
Nhà thơ Quách Tấn (4.1.1910 - 21.12.1992), sinh ra và lớn lên ở thôn Trường Định, huyện Bình Khê, nay là xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn, Bình Định. Ông làm thơ, viết văn, viết câu đối từ rất sớm, nhưng từ sau năm 1930, ông mới thực sự bước vào văn đàn, đồng hành với phong trào Thơ mới. Với tư cách là một dịch giả thơ chữ Hán, người đọc biết đến tài năng dịch thuật của Quách Tấn qua dịch thơ của Nguyễn Du - Tố Như thi (1973) và thơ của Thái Thuận - Lữ Đường thi tuyển dịch (2001) và nay là Ngục trung nhật ký - Hồ Chí Minh.