Cả nước ghi nhận 675 vụ tai nạn lao động gây chết người, tăng 13 vụ so với năm 2023. Tổng số nạn nhân tử vong là 727 người, tăng 28 người, trong khi số ca bị thương nặng là 1.690, giảm 30 trường hợp so với năm trước.
Các địa phương có số người tử vong do tai nạn lao động cao nhất gồm TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Quảng Ninh, Hải Phòng, Bình Phước, Long An và Thái Bình.
Đáng chú ý, trong năm 2024, số vụ tai nạn lao động chết người trong khu vực lao động không có hợp đồng đã giảm so với năm 2023. Tuy nhiên, ở khu vực có quan hệ lao động, cả số vụ tai nạn lao động chết người và số người tử vong đều gia tăng, cho thấy rủi ro vẫn hiện hữu ngay cả trong môi trường lao động có tổ chức.

Theo phân tích từ các biên bản điều tra Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, những lĩnh vực có nguy cơ tai nạn lao động chết người cao nhất bao gồm khai thác mỏ, khai thác khoáng sản, xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, luyện kim, dịch vụ, dệt may và da giày.
Cũng theo báo cáo sơ bộ từ các địa phương, tổng thiệt hại về vật chất do tai nạn lao động trong năm 2024 (bao gồm chi phí điều trị, mai táng, bồi thường cho gia đình nạn nhân và người bị thương) ước tính hơn 42.565 tỷ đồng, tăng khoảng 26.208 tỷ đồng so với năm 2023; thiệt hại về tài sản là 492 tỷ đồng, giảm khoảng 230 tỷ đồng so với năm trước.
Tổng số ngày nghỉ do tai nạn lao động lên tới 154.759 ngày, tăng khoảng 4.989 ngày so với năm 2023. Tuy nhiên, số ngày nghỉ trung bình trên mỗi lao động bị tai nạn là khoảng 19 ngày, giảm 3 ngày so với năm 2023.
Chính phủ cũng vừa ban hành Nghị định số 143/2024/NĐ-CP, quy định về bảo hiểm tai nạn lao động theo hình thức tự nguyện dành cho người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động (gọi tắt là bảo hiểm tai nạn lao động tự nguyện). Theo đó nếu người lao động gặp tai nạn trong quá trình tham gia bảo hiểm và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên sẽ được hưởng trợ cấp tai nạn lao động.
Trường hợp người lao động bị tai nạn do mâu thuẫn của chính nạn nhân với người gây ra tai nạn mà không liên quan đến công việc, nhiệm vụ lao động; cố ý tự hủy hoại sức khỏe của bản thân; sử dụng chất ma túy, chất gây nghiện trái quy định của pháp luật thì không được hưởng các chế độ tai nạn lao động.
Mức trợ cấp tai nạn lao động được tính theo tỷ lệ suy giảm khả năng lao động. Người lao động suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 100% sẽ được nhận trợ cấp bằng 3 lần mức lương tối thiểu vùng IV do Chính phủ quy định. Mỗi 1% suy giảm thêm được nhận thêm 0,3 lần mức lương tối thiểu vùng IV.
Ngoài ra, người lao động còn được trợ cấp bổ sung dựa trên số năm đã tham gia Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động tự nguyện. Với thời gian đóng bảo hiểm từ 1 năm trở xuống, trợ cấp sẽ là 0,5 lần mức lương tối thiểu vùng IV. Từ năm thứ hai trở đi, cứ thêm một năm sẽ được tính thêm 0,3 lần mức lương tối thiểu vùng IV.
Thời gian để tính trợ cấp tai nạn lao động dựa trên tổng thời gian đóng vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động tự nguyện, tính đến tháng liền kề trước tháng xảy ra tai nạn. Nếu việc đóng bảo hiểm không liên tục, thời gian sẽ được cộng dồn và tính khi có đủ 12 tháng.
Thời điểm hưởng trợ cấp tính vào tháng người lao động hoàn tất điều trị và ra viện, hoặc vào tháng có kết luận từ Hội đồng giám định y khoa, nếu không điều trị nội trú. Nếu không thể xác định thời điểm ra viện, thời điểm hưởng trợ cấp được tính vào tháng có kết luận của Hội đồng giám định y khoa.
Đối với trợ cấp trong trường hợp tử vong, Nghị định quy định, thân nhân người lao động qua đời do tai nạn lao động được nhận trợ cấp một lần bằng 31,5 lần mức lương tối thiểu vùng IV. Thời điểm hưởng trợ cấp cho trường hợp này là tháng người lao động qua đời.
Trợ cấp tai nạn lao động được thực hiện theo nguyên tắc mỗi tai nạn phát sinh trợ cấp một lần, không cộng dồn các vụ tai nạn trước. Nếu có giám định lại và mức suy giảm khả năng lao động tăng, người lao động sẽ được nhận thêm trợ cấp bổ sung tương ứng với mức suy giảm tăng thêm.
Nghị định số 143/2024/NĐ-CP sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1.1.2025.