Sự khác biệt giữa Hội đồng Hiến pháp và Tòa án Hiến pháp

Hồng Hà 18/10/2013 08:38

Có một số khác biệt về quyền hạn giữa Hội đồng Hiến pháp theo Hiến pháp năm 1996 và Tòa án Hiến pháp theo Hiến pháp năm 2011, theo đó, Tòa án Hiến pháp đã được trao một số thẩm quyền rộng hơn, bao gồm cả quyền kiểm hiến sau.


Kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật

Theo quy định của Hiến pháp năm 1996, Hội đồng Hiến pháp có quyền kiểm tra tính hợp Hiến của các đạo luật căn bản, các quy định về thủ tục của Quốc hội hay các đạo luật thường trước khi chúng được ban hành (kiểm hiến trước). Có hai trường hợp khác nhau: Thứ nhất, các luật về tổ chức trước khi được công bố bắt buộc phải chuyển sang cho Hội đồng Hiến pháp xem xét tính hợp hiến; Thứ hai, các dự luật thông thường trước khi công bố có thể được Hội đồng xem xét khi có đề nghị của một trong các chủ thể, bao gồm Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch Hạ viện, Chủ tịch Thượng viện, 1/4 số nghị sỹ của một trong hai viện.

Trong khi đó, Tòa án Hiến pháp trong Hiến pháp năm 2011 (được tiến hành sau cuộc cải cách hiến pháp do sức ép của làn sóng Mùa xuân Ảrập), cũng được trao quyền kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật căn bản và các quy định về thủ tục của Quốc hội hay các đạo luật thường khác trước khi chúng được ban hành. Tuy nhiên, số lượng đại biểu cần thiết để yêu cầu sửa đổi luật thường là ít nhất 1/5 tổng số hạ nghị sỹ và 1/4 số thượng nghị sỹ.

Có một điểm cơ bản nữa giữa hai cơ quan tài phán hiến pháp. Nếu Hội đồng Hiến pháp không có quyền kiểm hiến sau, tức quyền kiểm tra tính hợp hiến của một đạo luật bị khiếu nại trước tòa là vi hiến, thì Tòa án Hiến pháp lại được trao quyền này, theo điều 133 của Hiến pháp 2011.

Ngoài ra, Hội đồng Hiến pháp được trao quyền ra phán quyết về tính hợp hiến của một đạo luật do Quốc hội ban hành nhưng bị Chính phủ phản đối, cho là vi hiến. Trong khi đó, Tòa án Hiến pháp lại được trao quyền phán quyết về tính hợp hiến của một đạo luật do Quốc hội ban hành nhưng bị Chính phủ phản đối là vấn đề đó không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật hoặc trái với các quy định về ủy quyền lập pháp. Chủ tịch Hạ viện hoặc Thượng viện sẽ quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận sự phản đối của Chính phủ. Nếu chấp nhận thì quy định hoặc sửa đổi luật bị hủy bỏ. Còn nếu không chấp nhận, Chủ tịch Hạ viện hoặc Thượng viện có thể đệ trình Hội đồng Hiến pháp xem xét.

Kiểm tra tính hợp hiến của các cuộc bầu cử Nghị viện và trưng cầu dân ý

Cả Hội đồng Hiến pháp và Tòa án Hiến pháp đều được trao quyền kiểm tra tính hợp hiến của các cuộc bầu cử Nghị viện và các cuộc trưng cầu dân ý (Điều 180 trong Hiến pháp 1996 và điều 132 trong Hiến pháp 2011). Hội đồng Hiến pháp kiểm tra bầu cử Tổng thống cũng như bầu cử Nghị viện.

Đối với cuộc bầu cử Tổng thống, Hội đồng Hiến pháp bảo đảm cho cuộc bầu cử được tiến hành hợp lệ và xem xét, giải quyết các khiếu nại và công bố kết quả bầu cử. Trong cuộc bầu cử Nghị viện, khi có khiếu nại, Hội đồng Hiến pháp có quyền xem xét về tính hợp pháp của cuộc bầu cử Hạ viện và Thượng viện.

Hội đồng Hiến pháp bảo đảm cho các hoạt động trưng cầu ý dân được tiến hành hợp pháp và tuyên bố kết quả trưng cầu ý dân. Trong lĩnh vực kiểm tra các cuộc bầu cử cũng như trưng cầu ý dân, Hội đồng Hiến pháp thực hiện cả quyền tài phán và tư vấn. Hội đồng có thẩm quyền quyết định về tính hợp pháp của các hoạt động này. Ngoài ra, Chính phủ xin ý kiến tư vấn của Hội đồng về các văn bản liên quan đến việc tổ chức bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử Tổng thống và trưng cầu ý dân.

Những thẩm quyền khác

Hội đồng Hiến pháp được trao quyền quyết định về tư cách thành viên của đại biểu Hạ viện, Thượng viện trước và sau bầu cử, khi có xung đột vị trí, chết hoặc từ chức; xác định tư cách thành viên của chính Hội đồng Hiến pháp. Trong trường hợp có xung đột giữa Chính phủ và Hạ viện hoặc Thượng viện, Hội đồng Hiến pháp ra phán quyết theo yêu cầu của Thủ tướng hoặc của Chủ tịch các viện.

Tòa án Hiến pháp cũng được trao thẩm quyền tương tự như Hội đồng Hiến pháp, song ra phán quyết theo đa số (không bao gồm thành viên không được bầu lại) trong trường hợp một trong hai viện không kịp thời bầu thành viên của Tòa án Hiến pháp.

Hiệu lực của phán quyết

Phán quyết của Hội đồng Hiến pháp và Tòa án Hiến pháp đều không thể bị kháng cáo, có giá trị bắt buộc với mọi cơ quan công quyền, các thiết chế tòa án và hành chính. Các điều khoản hoặc đạo luật bị tuyên vi hiến không được ban hành hay áp dụng, ban hành hoặc áp dụng.

Như vậy, có thể thấy Tòa án Hiến pháp theo Hiến pháp năm 2011 có thẩm quyền rộng hơn so với Hội đồng Hiến pháp năm 1996. Một thẩm quyền mới bổ sung là quyền xác định tính chất vi hiến của một đạo luật đã được ban hành và đang được áp dụng nhưng bị khiếu nại là vi phạm các quyền tự do dân chủ của công dân. Trong trường hợp này, tòa án thường đang thụ lý xử lý vụ án có quyền đệ trình khiếu nại lên Tòa án Hiến pháp để ra phán quyết.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Sự khác biệt giữa Hội đồng Hiến pháp và Tòa án Hiến pháp
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO