Sống rồi mới viết (Phần 1)
Giữa năm 1982, giám đốc Bang Cơ họp ban biên tập nhà xuất bản Lao Động, nơi tôi làm việc, bàn phương hướng ra sách văn học trong thời gian tới. Ông là người có tầm nhìn chiến lược và luôn đề cao vai trò chủ động tổ chức bản thảo của biên tập viên. Nhẩm tính, ông nói: Văn học về giai cấp công nhân phải có tiểu thuyết lớn, ít ra là về các ngành chủ lực. Bấm đốt ngón tay thì Than có rồi (với sách của Võ Huy Tâm), Gang thép có rồi (với tiểu thuyết của Lê Minh, của Xuân Cang). Giao thông vận tải có rồi (với tiểu thuyết của Lê Phương, của Nguyễn Gia Nùng)... Vậy còn cao su miền Đông Nam bộ và Lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long? Và thế là tôi cùng Xuân Du trưởng ban sách văn học cùng nhà thơ Thái Vận để lại công việc biên tập cho nhà văn Trần Dũng ở nhà giữ gôn, lập tức lên đường đi thực tế vùng vựa lúa miền Tây Nam bộ với trách nhiệm viết tiểu thuyết về miền đất này.
![]() | |
Quăng lưới | Ảnh: Nguyễn Quang Tuấn |
Chủ nhiệm - nhà thơ Trần Đỗ Liêm và ban chủ nhiệm hợp tác xã ân cần đón tiếp và mời chúng tôi thâm nhập thực tế công việc làm ăn ở đây. Thật là quá buồn ngủ gặp chiếu manh! Đến đồng bằng Nam bộ lại có thuyền tàu cho đi đây đó, vẫy vùng trên các kênh rạch thì còn hơn là khách du lịch sinh thái còn gì!
Chúng tôi bám vào các con thuyền gắn máy của các xã viên, theo sát họ trong mỗi công việc làm ăn. Có chuyến đi dài vài ba ngày ra tận sông Sài Gòn chở đất đỏ. Nhiều lần chứng kiến cảnh tượng cả đoàn thuyền ăm ắp hàng hóa ngược sóng gió oai hùng, lãng mạn như các chiến thuyền ra trận. Cùng ăn ở với bà con, chúng tôi còn tham dự các sinh hoạt đời sống thường nhật của bà con. Từ các cuộc hội họp bàn kế hoạch làm ăn tới các lễ hội, các lễ tiết trong sinh hoạt ở vùng đất này.
Sau mấy ngày ở Tiền Giang, chúng tôi nhờ thuyền của Rạch Gầm đi qua Hậu Giang rồi tới Kiên Giang. Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa gạo. Kênh Vĩnh Tế nước xanh leo lẻo, thẳng tăm tắp. Lênh đênh trên sông nước giữa vùng trời đất mênh mang, người lúc nào cũng như đang bồng bềnh ở cõi giới huyễn hoặc xa lạ. Xa lạ quá! Đất đai phẳng lì, vừa thân mật vừa mông quạnh, bí ẩn. Nằm trong lòng thuyền, nghe mưa rơi âm vang mặt nước, trong tiếng máy côle nổ cần mẫn dai dẳng trong thênh thang trời đất, mê thiếp đi, tan hòa bản thể vào ngoại vật, chợt tỉnh thức vì một con sóng xô, nhìn ra trước mặt vẫn lại là mê man một màu nước trắng lạng và nắng phong phanh vô hình vô ảnh. Xa lạ quá, từ phong cách sống! Bữa ăn quây quần anh em, nhộn nhịp không khí bạn bè chằm bặp. Chậu rượu lớn sóng sánh giữa bàn ăn. Chén sứ nhỏ chuyền theo vòng kim đồng hồ. Uống! Uống cho kỳ say sỉn, sắp cá cả lượt, vui cái vui sinh tỏa thời mới đến đây lập nghiệp mở đất, trằn mình thau chua rửa mặn, đào kênh, lên liếp, gồng người chống chọi với cá sấu, cướp ngày và trộm đêm.
Tới Kiên Giang chúng tôi vào ăn nghỉ ở Liên hiệp Công đoàn tỉnh rồi làm việc với các ngành. Được biết, Rạch Giá là ngư trường lớn tầm cỡ thế giới. Biển ở đấy rất lặng và lắm cá. Ở đây, chúng tôi gặp các chiến sĩ hải quân vừa bắt quả tang mấy thuyền đánh cá Thái Lan xâm phạm hải phận nước ta. Được ít hôm chúng tôi chuyển lên và làm việc với các cơ sở ở An Giang, tỉnh lúa gạo, quê hương của Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng. Tiếp đó, bằng ôtô chúng tôi đi Hà Tiên. Ôi Hà Tiên, mỏm đất tận cùng phía tây của Tổ quốc. Hà Tiên có nhiều đường phố, nhưng ở thời điểm này chỉ thấy tập trung hàng hóa buôn bán giao dịch ở vùng cửa biển. Đây là một cửa biển cổ xưa. Dấu vết còn thấy là hai khẩu súng thần công, cây đèn pha, những đền miếu, lăng mộ, những khách sạn lợp thứ ngói cổ xưa. Đặc biệt, ở đây có cây dừa bảy đọt, ai ở xa tới cũng tìm đến ngắm. Chúng tôi đã đi thăm các danh lam thắng cảnh của vùng này như Thạch Động thốn vân, Đông Hồ ấn nguyệt, Bình San điệp thú... Trước nay chỉ tắm biển Đông lần này chúng tôi được tắm biển phía Tây ở Mũi Nai.
*
Hai tháng trời ở một vùng đất lạ. Các sự kiện ghi đầy mấy cuốn sổ tay. Cảm xúc ấn tượng dạt dào, tưởng như chỉ cần đặt bút là chữ nghĩa đổ xuống trang giấy ào ào. Vậy mà không! Lạ chưa! Trang giấy trắng đặt trên bàn ngày qua ngày cứ trống trơn đến rợn người. Mà thời gian này đâu có phải lực viết đã cạn. Tháng 3 năm 1981 tôi vừa viết xong tiểu thuyết Trăng non và đã nộp nhà xuất bản Tác Phẩm Mới. Tháng 4 cũng năm 1981, tôi hoàn chỉnh bản thảo tiểu thuyết Vùng biên ải. Còn Mưa mùa hạ lúc này sắp in xong.
Không thể nói là thiếu tư liệu, thiếu cảnh, thiếu chuyện để viết!
Vậy mà tệ hại thế đấy! Một dòng mở đầu cũng không nên hồn!
Chiều ấy, 29 Tết Quý Hợi, tôi ngồi cắn bút, vẳng nghe tiếng pháo từ phố phường xa xa vọng về. Gió rét căm căm. Tôi ngồi co ro ở căn buồng trong. Một lát, cửa mở, ào vào ba cái măngtôsan và rộn lên tiếng phụ nữ nói cười. Vợ tôi và hai bà chị dâu, chị Nguyễn Thị Liên vợ anh Đinh Trọng Lạc, chị Nguyễn Kim Thành, vợ anh Định Trọng Cảng, đi chợ Tết về. Ngổn ngang trên sàn, rối tinh rối mù là mứt, bánh, kẹo, măng miến, mộc nhĩ, nấm hương, bánh đa nem, đậu xanh, mì chính, hạt tiêu... toàn những thứ mua bằng tem phiếu, như một bức tranh tĩnh vật đủ màu sắc tết nhất! Chà, còn gì vui bằng đi chợ Tết! Còn gì thích hơn là được nghe các chị tíu tít chuyện trò về giá cả chợ búa tết nhất! Và thế là ý nghĩ đầu tiên về cuốn tiểu thuyết về đề tài gia đình đã được sinh thành.
Ôi! Cái đời sống tự nhiên muôn thuở với những câu chuyện tạp vặt tầm phào! Ba mươi Tết Quý Hợi, tức 12 tháng 2 năm 1983, tôi bắt tay vào viết cuốn Mùa lá rụng trong vườn. Viết hối hả trong cả mấy ngày Tết. Những gì đã có, tưởng như đã chìm đắm vào lãng quên mà hóa ra không phải, chúng vẫn còn ở đâu đó trong ký ức, chỉ cần khẽ cất lời huy động là lập tức có mặt, hiện lên thành câu thành chữ trên trang viết ngay. Sau Tết, từ ngày 1 tháng 3 năm 1983, công việc theo đà tăng tốc đến chóng mặt. Cuối tháng 6 năm 1983, tôi nộp bản thảo đầu tiên cho Nhà xuất bản Phụ Nữ. Và cuốn tiểu thuyết về vùng đồng bằng sông Cửu Long trong kế hoạch giám đốc Nhà xuất bản Lao động giao cho, rốt cuộc chỉ là một con số không to tướng!
*
Sống rồi mới viết! Chuyện ấy thì có gì là lạ. Nhưng nếu tôi không nhầm thì ở nước ta, người nói ra cái ý tưởng này đầu tiên là Nam Cao. Còn trước đó, tôi nhớ lần đầu đọc được ý kiến nọ là từ Henri Barbusse. Trong đó tác giả tiểu thuyết Khói lửa nhấn mạnh, phải sống thật sự, nghĩa là phải toàn tâm toàn ý, cụ thể là trong đầu óc không được vương vấn một tí gì về chuyện viết lách cả, thì sau đó mới có thể viết được. Nguyễn Tuân có một ý cũng khá đặc sắc về chuyện này khi nói về Nguyên Hồng. Với nhiều thành tựu trong văn chương, Nguyên Hồng được Nguyễn Tuân đánh giá là nhà văn có nhiệt tâm với sự sống hơn rất nhiều người. Vì cũng theo Nguyễn Tuân: “Sống theo cái nghĩa tôi hiểu là phải viết nó ra thành sách!”
Sống nhiều có quan hệ đến tuổi tác. Điều đó là hiển nhiên. Khổng Tử, ông thánh của đạo nho nói: “Ta, lúc 15 tuổi đã để chí học hành. 30 tuổi đã đứng vững. 40 tuổi nhận thức không lầm lẫn. 50 tuổi mới hiểu được mệnh trời. 60 tuổi thuận lợi mọi điều. 70 tuổi tự do hành động mà không trái phép tắc quy luật”.
Năm 1975, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hội Liên hiệp Thanh niên Thống nhất họp đại hội bầu ban chấp hành mới. Tổng thư ký Nguyễn Đình Thi gọi điện mời tôi sang, nói, sẽ giới thiệu tôi là đại diện cho giới nhà văn vào ban chấp hành nọ. Tôi đáp, tôi đã 40 tuổi, không còn trẻ nữa. Nguyễn Đình Thi cười: Làm gì có nhà văn dưới tuổi bốn mươi!
Tất nhiên nói điều đó là nói quy tắc chung. Chứ ông thừa biết, Chế Lan Viên viết Điêu tàn, Tô Hoài viết Dế mèn phiêu lưu ký và Nguyên Hồng có Bỉ vỏ đều dưới tuổi hai mươi.
Vậy với nhà văn, sống không có nghĩa là sống nhiều năm nhiều tháng.
*
Một lần nghe Tô Hoài nói chuyện, ông cho biết: khi đi hỏi chuyện một ai, ông không bao giờ ghi chép. Hỏi, vì sao, ông đáp: Người nói sẽ mất tự nhiên. Mà mình nghe cũng bị mất tập trung, không nghe được hết.
Không ghi chép. Vậy thì nhà văn cần là kẻ có trí nhớ đặc biệt.
Nhà kinh doanh là một vở kịch hay nhất của H. Balzac. Ông đã đến nhà hát Commédi France để đọc kịch bản này. Đọc hết vở kịch, ông đưa cho mọi người xem bản thảo thì chao ôi, bấy giờ mới biết chương cuối của vở kịch, chương chứa đựng những xung đột đầy kịch tính, những lớp đối thoại thông minh, hóm hỉnh, đều chưa được viết ra. Chứng kiến nhà văn đọc bản thảo là những trang giấy không chữ, có người nói: Balzac cho ta biết thế nào là sức mạnh không cưỡng nổi của thiên tài. Arkadi Gaida, nhà văn Liên Xô xuất sắc về đề tài thiếu nhi, có thể đọc thuộc lòng từ đầu chí cuối cuốn chuyện dài Số phận chú bé đánh trống mà chỉ nhầm lẫn đôi ba chỗ. Lê Lựu đọc thuộc lòng không sai sót một chữ từng chương trong tiểu thuyết Thời xa vắng và truyện ngắn Tết trong làng. Hòa Vang có biệt tài là có thể kể từ đầu đến cuối một truyện ngắn hoàn chỉnh. Chứng kiến nhiều lần như vậy, một hôm Hoàng Minh Tường bảo: Hòa Vang! Cậu cứ chép nguyên văn là có thể in được rồi. Truyện ngắn nổi tiếng Sự tích một ngày đẹp trời của Hòa Vang đã ra đời như thế! Ngô Văn Phú, Nguyễn Dậu, Ông Văn Tùng... mà tôi quen thân và nhiều nhà văn khác cũng có những trí nhớ đáng gọi là cường ký như vậy. Trộm nghĩ, nếu có được trí nhớ siêu phàm như Eran Kats, người Israel, một lúc có thể nhớ ngược xuôi dãy số 34 con số, mà lại là trí nhớ hình tượng nữa thì một ngày sống của nhà văn có thể bằng vốn sống cả năm trời!
*
Hiển nhiên là ai cũng biết, muốn viết được, trước hết là phải có vốn sống, tức chất liệu. Chất liệu là cuộc sống của chính mình. Bởi vì cái bí quyết thành công của nhà văn là ở chỗ trên trang viết anh phải thể hiện mình đầy đủ nhất. Nghĩ thế, nên nhiều nhà văn đã có ý thức chuẩn bị cho nghề nghiệp của mình bằng cách quăng mình vào cuộc sống, bằng việc du hành khắp đó đây, làm đủ các nghề nghiệp, tiếp xúc với đủ hạng người. Nghĩ thế nên, nhiều nhà văn coi việc đi thực tế là cách thức làm giàu có vốn sống của mình. Và nhà văn đi thực tế trong một thời gian dài đã là câu chuyện quá quen thuộc với lớp nhà văn cỡ tuổi tôi.
Trên vừa mở cuộc vận động xây dựng cấp huyện. Một đoàn nhà văn lập tức được Hội Nhà văn tổ chức lên đường. Yên Bái có nhiều điển hình về trang trại, một mô hình sản xuất hàng hóa nông nghiệp mới. Một đoàn nhà văn sẵn sàng ba lô túi xách lên đường. Thủy điện Yali khởi công. Thái Bình có cánh đồng 50 triệu. Thanh niên có mùa hè tình nguyện. Đi đến những nơi tiên tiến, gặp gỡ những con người tiên tiến đã từng là khẩu hiệu chỉ đạo nền văn học của chúng ta, một nền văn học tập thể và vui như Nguyễn Thành Long có lần nói với tôi.
Không thể phủ nhận hoàn toàn giá trị của những chuyến đi như thế. Dương Duy Ngữ nói, là nhà văn không thể không tham gia các chuyến đi, không đi thì không viết được. Xuân Cang nói rõ thêm: những chuyến đi mang tính chất gợi ý. Đúng! Đã có những nhà văn có biệt tài là rất nhanh chóng nhập thân vào nhân vật, sự kiện và đã có được tác phẩm sau những chuyến đi dăm bữa nửa tháng ấy. Bút ký đã xuất hiện kịp thời trên các tờ báo và giá trị thông tin động viên xã hội của nó là không thể phủ nhận. Có được một Chuyện thường ngày ở huyện, một bút ký báo chí có hơi hướng văn học, như của Oveskin thì cũng là quá tốt rồi chứ sao! Thật tình là những trang ghi chép về chuyến đi hai tháng trên địa vực đồng bằng Nam bộ kể trên của tôi, cũng không phải là hoàn toàn vô bổ. Về sau, nhiều cảnh sống, nhiều sự kiện và nhân vật tôi đã tiếp xúc và quan sát trong chuyến đi nọ đã được tái hiện trong chỗ này chỗ khác ở các tác phẩm của tôi.
Đúng! Những chuyến đi làm giàu thêm hiểu biết, đưa ta vào dòng chủ lưu của cuộc sống, gắn ta với các khuynh hướng tích cực có quan hệ đến vận mệnh của cộng đồng. Những chuyến đi gợi mở cho những trang văn thật sự! Tuy nhiên, ai cũng hiểu, các chuyến đi dẫu thế nào cũng không phải là tất cả, không phải hình thức quan trọng duy nhất để nhà văn có chất liệu làm nên tác phẩm của mình. Nếu hình dung những nơi tiên tiến, những con người tiên tiến là mặt sáng, thì vô hình trung nhà văn đã bỏ rơi mặt tối của cuộc sống, đã vô tình phản bội lại chức năng của văn học là quan tâm đến số phận con người?
(Số sau đăng hết)