Sénat thượng viện các nước: Nguồn gốc của Thượng viện
Thượng viện là một thiết chế khá phổ biến trên thế giới, nhất là ở các nhà nước liên bang. Mặc dù đa dạng về thành phần, các mối quan hệ, thẩm quyền, nhưng nói chung Thượng viện ở các nước có những nét chung, mà trước hết là có nguồn gốc chung.

Để tìm hiểu xuất xứ của Thượng viện, cần trở lại với thời La mã cổ đại. Ở đó Hội đồng Nguyên lão đại diện cho các tầng lớp giàu có và nhiều quyền lực trong xã hội bên cạnh cơ quan đại diện cho các tầng lớp dân cư lao động. Phần lớn Thượng viện các nước thời nay đều lấy tên Senate-Viện Nguyên lão vốn có nguồn gốc từ thời La Mã cổ đại là Hội đồng Nguyên lão.
Mục đích của cách tổ chức này là nhằm bảo đảm cơ quan lập pháp đại diện cho nhiều lợi ích, tầng lớp khác nhau, trên cơ sở đó, thúc đẩy gắn kết xã hội và xây dựng một nhà nước ổn định. Nguyên lý “cai quản hỗn hợp” này từng được các triết gia Hy Lạp cổ đại như Aristotle cổ súy, và có ảnh hưởng đến cách thức tổ chức Thượng viện trên thế giới sau này. Chẳng hạn, trong Viện dân biểu thành Athen, mỗi bộ tộc trong 10 bộ tộc được cử 50 đại biểu bằng cách bốc thăm. Cách làm này từng là một trong những mô hình được viện dẫn đề xuất trong quá trình cải cách Thượng viện Anh quốc vào cuối những năm 1990. Một nhà nghiên cứu nhận xét, như tên gọi của nó, ban đầu Thượng viện hàm ý đại diện cho tầng lớp trên của xã hội.
Thượng viện thời Trung cổ ở châu Âu cũng ra đời và phát triển theo nguyên lý tương tự. Trong đó, Viện Nguyên lão Anh ra đời vào thế kỷ XIV là ví dụ điển hình và có ảnh hưởng lớn đến mô hình Thượng viện nhiều nước. Thượng viện Anh tách từ Đại lão Hội đồng (Great Council) có mục đích tư vấn cho nhà vua và thỏa thuận về thuế. Thành phần của Đại lão Hội đồng bao gồm cả các chúa đất cho đến tầng lớp thị dân. Sau đó Hội đồng chia thành hai viện: Thượng viện gồm tầng lớp quý tộc và giáo sỹ và Hạ viện gồm đại diện các tầng lớp bình dân.
Nghị viện các nước châu Âu khác cũng có lịch sử tương tự. Chẳng hạn, nghị viện Pháp và Ai Len ban đầu có ba viện đại diện cho quý tộc, tăng lữ và bình dân. Vào thế kỷ XV Quốc hội Thụy Điển có bốn viện đại diện cho bốn tầng lớp: quý tộc, tăng lữ, thị dân và nông dân. Sau đó Quốc hội nước này chỉ còn hai viện vào thế kỷ XIX và đến năm 1970 chỉ còn một viện.
Cùng với mô hình cổ điển này, một mô hình Thượng viện xuất hiện muộn hơn nhưng có ảnh hưởng không kém trên thế giới- đó là mô hình Thượng viện Mỹ ra đời cuối thế kỷ XIX. Hiến pháp Mỹ đã kết nối các bang tự trị lúc đó lại với nhau, mỗi bang đều đang có lưỡng viện nhưng với dân số khác xa nhau. Tại Hội nghị Lập hiến ở Philadelphia năm 1787, đại diện các bang thảo luận số lượng nghị sỹ mỗi bang trong cơ quan lập pháp liên bang mới. Có ý kiến giải thích rằng để đạt được mục đích cân bằng với bộ máy hành pháp và không để cho nghị viện lấn át các cơ quan nhà nước khác, các nhà làm luật ở Mỹ đã chia nghị viện thành hai viện. Nhưng cũng có ý kiến lại cho rằng do các bang có số dân ít lo ngại họ sẽ bị lép vế nếu tỷ lệ ghế trong nghị viện phân chia theo dân số mỗi bang, nên cuối cùng, các bang đi đến phương án thỏa hiệp là thành lập thêm viện thứ hai-Thượng viện-để đại diện cho quyền lợi các bang. Mỗi bang được số lượng ghế như nhau trong Thượng viện. Cùng với việc phân chia quyền lực ngang bằng đối với cả hai viện, cấu trúc này của Thượng viện đồng nghĩa với việc không một biện pháp nào sẽ được thông qua nếu không được đa số trong Hạ viện và cả đa số trong Thượng viện ủng hộ. Mô hình của Mỹ được tiếp nhận ở nhiều nước liên bang sau này. Đức và Thụy Sỹ vốn chỉ có một viện gồm cả đại diện các bang, nhưng sau đó đã thành lập thêm viện thứ hai. Mô hình Mỹ cũng có ảnh hưởng mạnh trong cơ cấu tổ chức của Nghị viện những nước liên bang như Canada và Australia.
Nguyễn Lê