Sẽ giải quyết một cách có hệ thống
“Tôi thấy Bộ trưởng đã nắm khá vững vấn đề và trả lời khá trôi chảy chất vấn của ĐBQH” - Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga đã nhận định như vậy về phần trả lời của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh trong phiên chất vấn chiều qua.
Thẳng thắn, trách nhiệm, nghiêm túc có lẽ là điều không quá khó để cảm nhận được trong khoảng 2 tiếng rưỡi đồng hồ Bộ trưởng Chu Ngọc Anh đăng đàn trả lời các chất vấn của ĐBQH. Bộ trưởng cũng thực hiện nghiêm túc yêu cầu của Chủ tọa điều hành, nhất là cải tiến “hỏi ngắn - đáp gọn” lần đầu tiên được thực hiện thí điểm với hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại Phiên họp thứ 22 này.
Dẫu vậy, điều mà ĐBQH và cử tri chờ đợi hơn cả, đó là trước sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ toàn cầu, cơ hội và thách thức từ cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, với vị thế của một nước đi sau, thì làm thế nào để khoa học, công nghệ Việt Nam bắt nhịp được với thế giới? Đâu là giải pháp để chúng ta có thể “đi tắt, đón đầu”, nhanh chóng đưa khoa học công nghệ tiên tiến nhất và mới nhất của thế giới vào Việt Nam, ứng dụng hiệu quả, thiết thực phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước?
![]() |
Vẫn biết rằng, đầu tư cho khoa học - công nghệ cần nguồn lực vô cùng lớn. Trong khi đó, giá trị của những sản phẩm trong lĩnh vực này lại không dễ “hạch toán”, định lượng ngay bằng những con số cụ thể. Đặc thù của hoạt động nghiên cứu khoa học là quá trình thử và sai, có tính rủi ro và độ trễ (đôi khi tính bằng thập kỷ) để kết quả khoa học - công nghệ được ứng dụng thành công và mang lại giá trị gia tăng. Sản phẩm là kết quả nhiệm vụ khoa học - công nghệ (thực chất là bài báo khoa học và sáng chế), vì vậy, cần thời gian để được thương mại hóa, hình thành doanh nghiệp khởi nghiệp để ứng dụng và tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới cho xã hội. Nhưng rõ ràng, trong bối cảnh nguồn lực đất nước còn nhiều khó khăn, thì 2% đầu tư cho khoa học công nghệ mỗi năm là sự cố gắng lớn của ngân sách nhà nước. Câu hỏi đặt ra là liệu những kết quả đạt được đã tương xứng với nguồn lực bỏ ra hay chưa?
Đề cập tới một nội dung chi cụ thể trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, đó là các đề tài nghiên cứu khoa học, ĐBQH Hoàng Đức Thắng (Quảng Trị) đặt câu hỏi: Bộ trưởng đánh giá như thế nào về hiệu quả của các đề tài nghiên cứu khoa học? Có hay không tình trạng đề tài nghiên cứu khoa học bỏ ngăn tủ, ngăn kéo, nghĩa là nghiên cứu chỉ để nghiên cứu mà không có giá trị ứng dụng vào thực tiễn? Với trách nhiệm của mình, Bộ trưởng sẽ làm gì để khắc phục tình trạng này?
Cho rằng đề tài nghiên cứu xong “bỏ ngăn kéo là một cách ví von và nói thật với tư cách là nhiều thế hệ của Bộ Khoa học và Công nghệ, chúng tôi rất trăn trở việc này”, song “với trách nhiệm trước từng đồng thuế của nhân dân”, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh thừa nhận: Nhìn một cách tổng thể và thấu đáo là (đề tài nghiên cứu khoa học) chậm ứng dụng trên tất cả các mặt trận và đưa vào cuộc sống. Đó cũng là “cách lãng phí, bỏ ngăn kéo”. Đồng thời khẳng định: “Nhiệm vụ của chúng tôi là giải quyết một cách hệ thống việc này, cùng với khoa học - công nghệ để phục vụ kinh tế - xã hội hay nối với các chính sách kinh tế vĩ mô”…
Thực ra, đề tài nghiên cứu khoa học bỏ ngăn kéo không phải là vấn đề mới, và đến nhiệm kỳ này, cụ thể là Phiên họp chiều qua, mới được đưa ra chất vấn “Tư lệnh” ngành khoa học - công nghệ. Trước đó, tại Kỳ họp thứ Chín, QH Khóa XIII (tháng 6.2015), Bộ trưởng Nguyễn Quân đã trả lời các chất vấn của ĐBQH về tình trạng đề tài bỏ ngăn kéo là “việc nghiên cứu đi trước thời đại”, và “câu nói này đã đi vào lịch sử chất vấn của QH”, ĐBQH Nguyễn Sỹ Cương (Ninh Thuận) rành mạch. Không phủ nhận sự cố gắng của các Bộ, trong đó có Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính trong việc khắc phục những hạn chế liên quan đến kết quả ứng dụng khoa học - công nghệ, trong đó có các đề tài nghiên cứu khoa học, nhưng ĐB Nguyễn Sỹ Cương chỉ rõ “ở đâu đó vẫn còn sự lãng phí này”. Trên thực tế, phản ánh của cử tri cho thấy có một số đề tài nghiên cứu khoa học, nhất là trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, “rất không gắn với ứng dụng”.
Lấy ví dụ ngay từ một số dự án luật được giao cho các bộ chủ trì soạn thảo, ĐB Nguyễn Sỹ Cương nói rằng, để triển khai, các bộ lập đề tài phục vụ việc nghiên cứu xây dựng dự án luật đó, và vấn đề là “đến lúc kết thúc, các đề tài đó lại được cắt làm mấy đề tài nghiên cứu khoa học nhỏ để thanh toán”. Nêu rõ “trong thời gian gần đây tình trạng này đã giảm bớt”, song ĐB Nguyễn Sỹ Cương đề nghị, “cần có giải pháp cụ thể tránh tình trạng nghiên cứu rất lãng phí, vì với con số 2% ngân sách không nhỏ chút nào”.
Nhìn nhận một cách công bằng, khoa học - công nghệ đã được ứng dụng rộng rãi và có đóng góp thiết thực phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như sự phát triển của các ngành, lĩnh vực, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Đơn cử, trong lĩnh vực nông nghiệp, khoa học - công nghệ đã đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và 38% giá trị gia tăng trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Tuy nhiên, như Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra trong Báo cáo về các nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn, đó là hiệu quả ứng dụng các kết quả nhiệm vụ khoa học - công nghệ trong thực tiễn còn chưa thực sự đáp ứng được kỳ vọng của thị trường, doanh nghiệp cũng như mục tiêu đề ra của chính các nhà khoa học và cơ quan đầu tư cho khoa học công nghệ.
Vậy nên, ghi nhận sự nghiêm túc, cầu thị của Bộ trưởng, nhưng có lẽ điều mà ĐBQH và cử tri chờ đợi hơn cả, đó là bài toán chi phí và hiệu quả đầu tư cho khoa học công nghệ, tuy không phải là vấn đề của riêng Việt Nam, mà luôn là thách thức chung mà các nước trên thế giới đều phải đối mặt, nhưng cần có lời giải thật sự căn cơ và thấu đáo. Như yêu cầu của Phó Chủ tịch Thường trực QH Tòng Thị Phóng: “Phải có quyết tâm cao hơn nữa với những giải pháp tích cực để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ”.