Sẵn sàng lên đường khi Tổ quốc gọi
Nhằm cấp bách chi viện cho chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, năm 1971, có khoảng 4.000 sinh viên các trường đại học ở miền Bắc lên đường nhập ngũ. Nửa thế kỷ đã trôi qua, ký ức về một thời “xếp bút nghiên ra trận” của các cựu sinh viên chiến sĩ năm ấy lại ùa về khi họ có cuộc gặp mặt ý nghĩa sáng 6.9 tại Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).
Vững tin vào ngày toàn thắng
Nhận điện thoại của nhóm bạn học suốt một tuần nay, cựu chiến binh Đào Chí Thành, cựu sinh viên năm thứ nhất Khoa Toán, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2 thấy mình như trẻ lại, phấn chấn hẳn ra. Cũng 51 năm rồi, ông và đồng đội vẫn bồi hồi khi nhớ lại ký ức một thời “xếp bút nghiên ra trận”.

Ông Thành kể, năm đó lũ lớn, đê sông Hồng vỡ ở Cống Thôn (huyện Gia Lâm, Hà Nội), quê ông lũ tràn bờ thủy lợi, mênh mông là nước. Vào cuối tháng 8, sinh viên các trường vẫn đang nghỉ hè. “Nhận được giấy báo nhập ngũ, từ nơi sơ tán gần thị xã Phú Thọ, tôi chuẩn bị vài bộ quần áo, mấy cuốn sách vào ba lô, lúc đi bộ, đoạn nhờ ô tô mất hai ngày đêm mới về đến Hà Nội. Tôi nhớ, nhiều đoạn đường tàu từ Phú Thọ về Hà Nội bị nước đánh văng, chỉ một số đoạn nhìn thấy đường ray, gian nan thế nhưng được ngồi tàu đã là may mắn rồi”.
Về đến trường, nước ngập khắp nơi, khoa thông báo hoãn nhập ngũ đến đầu tháng 9 nên ông Thành ở lại trường 1 tuần. Đến ngày lên đường, ông Thành chưa tròn 18 tuổi, không bạn bè, không người thân đưa tiễn. Ông chỉ suy nghĩ đơn giản rằng, mình còn trẻ thì phải cống hiến, khi Tổ quốc gọi thì sẵn sàng lên đường!”. “Sau 3 tháng huấn luyện tăng cường, tháng 12.1971, tôi được biên chế về Đại đội 14, Trung đoàn 95, Sư đoàn 325. Đến cuối tháng 4.1972, chúng tôi vào Quảng Bình, vừa huấn luyện vừa bảo vệ miền Trung. Một tháng sau đó, đơn vị tôi hành quân vào Quảng Trị, chốt tại cổng Đông Thành Cổ, chiến đấu liên tục 50 ngày đêm những ngày hè đỏ lửa”, ông Thành nhớ lại.
Nhập ngũ cùng ngày 6.9.1971, cựu chiến binh Nguyễn Đình Độ, cựu sinh viên năm thứ 3 Khoa Vô tuyến điện, Trường ĐH Bách khoa Hà Nội tạm gác lại việc học để lên đường nhập ngũ. Sau một thời gian huấn luyện tại Binh chủng Tăng - Thiết giáp, Tam Đảo, năm 1972 ông Độ được điều động về Xuân Mai, Hòa Bình để tăng cường cho chiến trường B3 - Tây Nguyên. Đã qua nửa thế kỷ, ông Độ vẫn không quên những ngày tháng ấy. “Chiều 18.12.1972, từ điểm xuất phát tại Xuân Mai, Hòa Bình, lên đến đỉnh dốc Cun, nhìn về Hà Nội, tôi thấy B52 đánh đỏ rực cả một quầng trời, càng nghĩ mình cần làm gì hơn nữa để góp phần ngưng tiếng súng ấy. Đoạn đường vượt Trường Sơn qua vùng chiến khu rừng núi hiểm trở, cơm không đủ ăn, chỉ có củ sắn, bắp ngô, khó khăn, vất vả vô cùng, tôi và đồng đội vẫn không chùn bước. Đói ăn, sốt rét, nhưng tất cả đều quyết tâm, phấn khởi tin vào ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tháng 2.1973, chịu trách nhiệm bảo đảm kỹ thuật cho 7 xe tăng và 5 xe bọc thép an toàn, tôi cùng đồng đội vào đến chiến trường B3, nhập Trung đoàn Tăng - Thiết giáp Tây Nguyên (Trung đoàn 273), phối hợp chiến đấu với các lực lượng bộ binh”.
Ứớc nguyện tri ân đồng đội
Tuy chưa có thống kê chính xác, song có tài liệu cho rằng hơn một nửa trong số sinh viên “xếp bút nghiên ra trận” đã hy sinh trên các chiến trường. Số còn lại, nhiều người mang thương tật hoặc di chứng của chiến tranh, sau khi thống nhất đất nước đã trở lại giảng đường đại học tiếp tục học tập, ra trường phục vụ công cuộc tái thiết đất nước.
Cựu chiến binh Lê Quốc Thành, cựu sinh viên Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ, từng biên chế tại Trung đoàn 95, Sư đoàn 325, chốt tại Nhà thờ Tri Bưu, bảo vệ Thành cổ Quảng Trị khi cuộc giằng co tại đây đến hồi ác liệt nhất. Ông Thành nghẹn lại khi kể về những đồng đội mình đã hy sinh. “Tháng 7.1972, gần như toàn bộ số sinh viên Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ tại đơn vị tôi đã ra đi mãi mãi. Tôi may mắn hơn với vô số vết thương trên người, gan trúng đạn phải cắt bỏ 1/3. Là người duy nhất thời điểm đó được mổ sống, không gây mê, tôi vẫn được bác sĩ động viên: Đằng nào đồng chí cũng hy sinh nên còn đoạn gan nào thì còn phải sống để chiến đấu”. Với tỷ lệ thương tật 81%, phải “đi trại” do không đủ sức khỏe, ông Thành đã dùng dao cạo nhẹ số 8 thành 3 để còn 31%, để tiếp tục chiến đấu, học tập và công tác nhiều năm tháng sau đó.
Ông Thành bày tỏ, “qua 6 lần lên bàn mổ, ở tuổi này không biết còn được gặp lại đồng đội bao nhiêu lần nữa, nên dù bận rộn mấy tôi cũng cố gắng tranh thủ các cơ hội để gặp những người bạn già, để nhìn thấy đồng đội cũ, vậy là mừng rồi. Nhiều năm nay, tôi vẫn tham gia ủng hộ Quỹ "Mãi mãi tuổi 20", trở về chiến trường xưa Quảng Trị hàng năm và tri ân các gia đình chính sách, với tinh thần mang tình cảm của các cựu chiến binh và thế hệ "tuổi 20" đến với cuộc sống hòa bình hôm nay, góp phần lan tỏa những giá trị nhân văn tốt đẹp cho cộng đồng và xã hội”.
Trở về với cuộc sống đời thường sau bao năm phục vụ quân đội, nhưng cựu binh Nguyễn Quý Lăng, cựu sinh viên Khoa Toán, Trường Đại học Tổng hợp (nay là Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội) vẫn trăn trở: "Đối với những đồng đội đã hy sinh, sau ngày hòa bình, chúng tôi cũng đã tìm gặp, thăm hỏi thân nhân của họ; thực hiện phần nào ước nguyện của một số gia đình liệt sĩ là quy tập cất bốc hài cốt đồng đội về quê hương. Chúng tôi cũng đang kêu gọi các tổ chức, cá nhân ủng hộ các hoạt động này. Bản thân may mắn hơn nhiều đồng đội khác, nên tôi sẽ cố gắng tri ân đồng đội, tri ân cuộc đời".