Ra khỏi rừng
Truyện ngắn của Trương Anh Quốc

Trời còn mờ đất Tèo và tôi đã đi rồi, đi sớm không gặp ai cho hên. Cái bao cát túm miệng, hai quai dây chuối sứ khô tôi cắt nhúng nước từ đêm qua thiệt chắc, êm như đeo ba lô, mo cơm trên lưng nóng hôi hổi.
Sớm thế chứ đến nơi cũng gần trưa, hái được chừng vài ba tiếng là phải lo về cho kịp. Sa nhân mọc ở núi cao, thuốc bắc thuốc nam không thể thiếu nó được, hái làm thuốc tốt nhất vào mùng năm tháng năm. Ngày này trong làng nhà nào cũng một vài người lên núi cắt tất cả các loại lá cây rễ củ về chặt nhỏ phơi khô làm chè uống cho cả năm. Chè mùng năm trị mất ngủ sôi bụng, giải nhiệt... Trưa đi làm đồng về hay ăn tối xong làm một ly cối nóng hổi không chi thích bằng, chè mùng năm phải nấu thật chín chứ không uống vô mất ngủ cả đêm. Chè mùng năm thơm ngon hơn khi có vài cuống trái sa nhân. Thầy thuốc mua sa nhân mùng năm giá gấp đôi ngày thường. Hôm nay chúng tôi quyết kiếm cho đủ một bộ sách, sách cứ cải cách liên tục không thể mượn lại sách cũ, năm nào hai đứa tôi cũng học chung một bộ.
Ở dưới đồng hai đứa cắm cổ đi cho nhanh, tới dốc Cổ Cò nhìn xuống mặt trời mới ló phía hòn Chiêng, trời quang, ráng mây hồng hồng, nhất định sẽ nắng. May rồi nếu gặp mưa sẽ không hái được gì mưa rừng lạnh ngắt chạy tránh vắt còn không kịp. Nghe gà rừng gáy te te, Tèo hứng chí:
Hò... hơ...
Ông Khuất Nguyên
Mồng năm ổng sắm nhiều đồ
Nửa trái mít chín bảy tô cháo đường
Ăn rồi xách giỏ lên nương
Đụng cơn gió độc thống trường ngay đơ...
Tôi cãi lại:
- Ông Khuất Nguyên trẫm mình xuống sông mà chết chứ đâu phải lên núi!
- Chứ mi không thấy cúng ổng toàn trái cây, xe cháo chồi không?
Cả hai cùng cười. Tôi cười thằng Tèo hay nói lái. Tèo nói dân mình cứ cúng người ở đâu tít lít bên Tàu. Mà cũng lạ, chỉ có một ngày mà người ta gọi đến là nhiều tên, giỗ ông Khuất Nguyên, nào là tết Đoan Ngọ, nào là ngày diệt sâu bọ. Trưa đứng bóng mùng năm cua cá ở ruộng giãy lên chết, dạo rày chích điện nhiều quá cua cá đâu còn. Mà ngày chi chẳng được, xưa bày nay bắt chước, sắm cúng rồi mình ăn chứ có mất đi đâu.
Vừa đi vừa trò chuyện ít mệt, đường như ngắn lại, đi núi nếu ít người cũng phải nói chuyện ồn ào cho thú rừng sợ mà tránh. Mới hôm kia chứ đâu, bà Tám qua dương sim thấy sim chín không lo đi cho kịp mà đứng lại hái, gặp con gấu lạc bầy đi ngang, bà vừa bịt mắt vừa la nhưng sợ quá không la to được, gấu vật xuống cào rách cả mặt. Cũng may nhóm người đi trước dừng lại ở con suối gần đó nên bà cũng chạy theo kịp. Nhìn bà thở không ra hơi, mặt mày rướm máu, cái áo rách một vạt ở cổ, ông Chiến chọc: “May đó là con gấu đực, nó lo rờ ngực chứ gặp con gấu cái là bả đui mắt rồi”. Ổng còn đế thêm: “Phụ nữ có vũ khí lợi hại rứa đó” làm mấy đứa con gái mắc cỡ ngó lơ nói thầm: “Cái ông Chiến thó vô duyên!”
Chỉ có đám con trai là khoái chí. Cái ông thiệt là ngẵng, già trẻ bé choai ai cũng chọc được, có lần thấy đám con gái mặt nổi mụn đỏ rần tụm năm tụm bảy nói chuyện làm đẹp làm điếc ông mới nói nhỏ: “Tụi bay có trong người mà không biết dùng”. Đám con gái bu theo hỏi, ông dí tay vào ngực bảo thoa lên mặt mấy lần là da mịn như trứng gà bóc. Về nhà đứa nào đứa nấy vô buồng ráng nặn mà làm gì có sữa non mới biết bị lão chơi xỏ. Hôm nọ thấy trái đú đớ đỏ chót ông cứ biểu anh Mít hái, đú đớ chín chua chua ngọt ngọt ăn đỡ đói. Anh Mít mới về làm rể nên cứ hỏi đú đớ là trái chi, nghe giọng Huế nói đú đớ thì ai nghe cũng ôm bụng cười.
Hết vụ mùa, núi rừng trở nên đông vui, người người đi núi, phát rẫy tỉa bắp trồng sắn khoai chuối, cắt lá lấy củi, bứt mây đốn dang mò cua bắt ốc đem bán... Lên núi là kiếm được cái ăn, không nhiều thì ít. Cũng lạ thiệt, dưới kia người ta san lấp ruộng lúa màu mỡ để đô thị hóa còn trên này phải lên núi trồng trọt.
Mùng năm núi rừng vắng tanh, chỉ có tiếng khỉ vượn hú, tiếng bồ chao lùm kêu, tiếng gió thổi cây lá rào rào. Người ta ở nhà cúng quảy hay rủ nhau đi chơi xa hết rồi. Chúng tôi đi nhanh vì không phải chờ ai, theo lối mòn của những người làm cây lấy gỗ ngày trước. Bây giờ người ta không làm cây nữa, làm cây tốn rất nhiều công sức, thanh niên khỏe mạnh mới làm được nghề này, lại trốn chui trốn nhủi kiểm lâm, nếu bị thu gỗ và đồ nghề phải khiêng đến tận xã. Trồng bạch đàn khỏe hơn nhiều, mấy năm là có gỗ để làm nhà.
Gần trưa, dừng lại nghỉ chân bên khe suối nhỏ, bứt lá dong bèo lại uống nước, nước suối trong vắt mát lạnh, tôi sợ như ông Tám cũng vì khát quá vục miệng xuống suối, vắt chui vô lỗ mũi hút hết máu gầy nhom nhom, trưa ông ngủ con vắt cứ ló đầu ra, ông phải ăn khô nhịn khát mấy ngày lấy nước nhử mới bắt được. Vắt ở đâu mà nhanh thiệt, đứng có chút xíu đã có mấy con bu lên kẽ chân, trân gân cổ lên hút máu, cái lưng nó cong như cọng dây thun. Hai đứa leo lên một hòn đá bằng nghỉ, từ đây đi hai quả đồi nữa sẽ đến khu vực có cây sa nhân. Thấy bên khe suối có dấu chân và mấy bãi phân voi còn mới toanh, tôi dặn:
- Mi coi chừng đạp phải là què giò đó nghe!
- Ừ, biết rồi!
Cái loài cũng kỳ, ăn ba thứ lá mây nên ị ra gai lởm chởm phát khiếp. Hai đứa chia hai cánh, khi gặp nơi có nhiều sa nhân thì hú nhau lại, giữ liên lạc bằng cách chốc chốc gọi nhau hoặc lấy câu liêm gõ vào đá cheng cheng làm hiệu. Đi núi mang theo câu liêm để tự vệ, phát gai góc cản lối đi cào lá cây tìm trái sa nhân. Là trái nhưng sa nhân ở dưới đất. Lần đầu theo mọi người đi hái tôi cứ nhìn lên ngọn cây mà tìm làm ai cũng cười ồ. Chúng tôi thỉnh thoảng chặt cây lá rủi có lạc thì còn biết đường về.
Năm nay sa nhân mất mùa, trái thưa rơ thưa rớt. Nhiều vạt cây tỏ nắng, tốt um tùm mà chẳng có trái nào chỉ có bông non trắng nõn. Sa nhân mất mùa thì lúa cũng sẽ mất mùa thôi, hèn chi ở dưới đồng vườn cau nhà ai cũng trĩu buồng, mấy người già hay bảo được mùa cau đau mùa lúa. Tôi trèo lên một quả đồi cây lưa thưa, vén lá nhìn về phía xã bên kia, đồng lúa xanh ngắt, các ngôi làng xen giữa những cánh đồng. Tôi ước được một lần gặp người bên kia thử mặt mũi, sinh hoạt có giống với bên mình không. Cách nhau hơn dãy núi cao mà sao thấy bí ẩn quá chừng. Bây giờ gọi là huyện bên kia mới đúng, khoảng cách càng vời vợi, không biết chia huyện rồi vạt rừng mình đang đứng đây là bên này hay huyện kia?
- Mi ở mô rồi?
- Bên ni nè, dưới đó có nước không?
- Có. Xuống đây ăn trưa đi rồi hái, dưới ni nhiều lắm.
Tôi men theo lối mòn nho nhỏ. Trước mặt tôi một con quái vật đen sì đứng trợn mắt nhe răng. Hai cái răng nanh trắng phau nhọn hoắt vểnh lên giống hai cái ngà voi, bộ lông dày dài thượt đầy bùn đất xù lên như lông nhím. Tôi quay đầu ba chân bốn cẳng chạy, không dám kêu một tiếng, sợ nó đuổi theo, khi trèo lên được một cây to rồi tôi mới dám nhìn lại. Con heo rừng đuổi theo một đoạn rồi thôi. Cũng may không phải là heo bầy, nếu là heo giữ con thì tôi chết chắc.
Tụt xuống đất, có phải cào nhằm gai không mà bàn tay đau thốn thế này? Tôi lật tay lên coi, chết rồi, lông rạm(1). Chắc rạm bò trên thân cây to lúc nãy. Tôi dùng tay trái rút lông rạm ra, nó đứt từng đoạn, đứt đoạn thế này là lông rạm chết. Lông rạm chết rất độc cứ xoáy sâu vào da thịt, nhức buốt. Đặt lưỡi câu liêm lên mu bàn tay để nó không đâm vào sâu thêm nữa, lông rạm rất kỵ sắt, tôi chà tay lên tóc, lượm lá khô vo nát xát mạnh cho ra nhưng càng lúc càng găm vào sâu hơn.
- Tao bị rạm rồi!
Nghe gọi, Tèo chạy về phía tôi. Bỗng Tèo kêu thất thanh:
- Chết rồi, Tí ơi!
Không biết chuyện gì, tôi lao về phía Tèo vừa chạy vừa hỏi nó ở đâu. Cuối cùng cũng đến nơi, thấy Tèo lom khom gỡ kẹp, ngực tôi đau nhói. Tôi dùng hết sức đè vào quai kẹp nhưng không nhúc nhích. Kẹp heo rừng phải có kít(2) mới mở được. Cũng may Tèo đã kịp chêm cán câu liêm vào trước. Tôi chặt cây bẫy rồi chêm đá thêm vào cho răng kẹp không găm sâu vào xương. Tôi trèo lên ngọn cây cao nhất, bắc tay làm loa:
- H... u... ú, có người mắc kẹp. Cứu dùm với!
Kêu mấy lần cũng không có tiếng trả lời, chỉ có âm thanh dội và tiếng khỉ vượn nhái lại tiếng tôi. Tôi trèo xuống, Tèo chạy sang cứu tôi mới giẫm phải kẹp. Sao người ta gài kẹp mà không khem(3) kia chứ! Sợ kiểm lâm? Mấy khi kiểm lâm lên núi cao tìm kẹp. Bây giờ chia huyện nên sợ trộm? Kẹp gấu còn biết vì có chuồng, kẹp heo không khem thế này nguy hiểm quá! Chiếc kẹp và sợi xích lủng lẳng hơn chục ký ngoạm vào chân sao mang đi cho được! Nếu bỏ Tèo đây chạy về kêu người thì khi nào mới cứu được, Tèo ở lại một mình thì rắn rít, gấu, chó sói đến xé xác mất.
Nhìn lên trời, thấy cái dù Mỹ viền xanh đỏ bay phất phới ngọn cây tôi nghe lành lạnh xương sống. Đúng eo Gió rồi! Chỗ này ngày trước anh Tư đập trái đạn lấy đồng bị nổ banh xác, thịt xương treo lủng lẳng ngọn cây. Mọi người đều tránh không dám đến đây.
Nhìn xuống đất, chợt thấy một sợi mây rục bò len lỏi trong đám cỏ, nghe mừng mừng, tôi dò lại gốc tìm sợi mây roi cày cắt lấy mấy đoạn bện lại thật chắc. Mặt mày Tèo xanh lét vì mất máu, hàm răng nghiến chặt nén cơn đau thấu xương. Chặt đòn rồi bê cái kẹp và dìu Tèo lại một gốc cây, tôi bẩy còn Tèo dùng dây mây siết giữ. Cái hàm kẹp cũng từ từ mở ra từng chút một. Đòn càng lúc càng nặng dây càng lúc càng căng, tôi cẩn thận sợ sẩy tay hay đứt dây thì chẳng khác nào mắc kẹp một lần nữa. Cố gân cốt gần kiệt sức, chiếc kẹp há ra, Tèo khó nhọc lách bàn chân, cuối cùng cũng gỡ ra được. Máu dính vào răng kẹp đã khô, đen thẫm, khi nhấc chân ra máu rướm theo đỏ lừ. Chân Tèo bại hẳn, không cử động được nữa. Tôi vén quần đái vào rồi xoa bóp cho tan máu bầm, hái lá cây xé áo bó lại cho khỏi sưng. Nhìn cái kẹp tôi tức quá cầm sợi dây xích quật liên hồi vào tảng đá xanh, nó móp méo rụng không còn một chiếc răng, treo chiếc kẹp vào gốc cây to ngang đầu gối để người thấy, heo rừng đi ngang cũng thấy hoặc nghe hơi mà tránh.
Mệt quá tôi ngồi bệt xuống đất, chợt nghe tay mình đau nhức. Chết rồi, lông rạm đã mất hút vào thịt rồi! Tôi cầm miếng da kéo ra bảo Tèo dùng câu liêm cắt. Mất một miếng thịt chứ không để như ông Ký cụt. Ông Ký đi làm cây đạp phải lông rạm chết, xức dầu quế mấy tháng không hết phải tháo khớp bàn chân. Tèo chần chừ không dám cắt, tôi bảo nó cầm da kéo căng, tôi cắt, lưỡi câu liêm lì vừa cắt vừa cưa mới đứt. Máu chảy ròng ròng, tôi bứt lá cho Tèo nhai và băng bó cho máu cầm lại.
Quá mệt tôi nằm lăn trên đống lá khô, nghe bụng đói cồn cào. Lấy gì để ăn đây? Mo cơm tôi làm rơi lúc chạy trốn heo rừng thì phải, không biết bây giờ nó ở đâu, tôi cũng không dám quay lại tìm vì sợ con heo như con quái vật đó quá. Phải chi không gói chung một mo thì giờ này có cơm ăn rồi, và giá như tôi cẩn thận hơn một chút. Lỗi cũng tại tôi.
Tôi cõng, Tèo cầm gậy chọc phía trước dò kẹp. Đi một hơi là lên tới đỉnh dốc, tôi dừng lại thở hổn hển, không còn sức để cõng đi thêm một đoạn huống chi là mấy ngọn đồi nữa mới ra đến đường mòn. Tôi nhìn về phía bên kia, thấy từng thửa ruộng bậc thang cong cong, thấy làng xóm, mấy ngọn khói lam ai đốt rơm đồng bay lên quyện với mây trời. Gần hơn về bên mình, hay là xuống bên kia đi trạm xá, sau đó về bằng đường đèo? Nhưng rồi tôi dừng ngay ý định đó lại vì không biết đường, đi xuống mà không thuộc địa hình có khi còn lâu hơn, và xuống đó, bây giờ đã là huyện khác rồi, tôi sợ, không biết phía rừng bên kia họ có gài kẹp heo, kẹp hổ không.
Tiếng ve đổ từng hồi, trời sắp tối, nhanh chứ về không kịp. Chân cẳng thế này làm sao đi nhanh được. Bỗng Tèo bảo:
- Hay là làm cây nạng đi.
- Ừ, hay đấy.
Tôi chạy tìm chặt cây có cháng rồi cột thanh ngang làm nạng cho Tèo chống. Tèo bước, tôi dìu đi nhẹ nhàng hơn.
- Khỏe rồi, mi chạy xuống lấy bao sa nhân đi.
- Thôi đi, lo về cho được tới nhà.
- Được chừng nào hay chừng đó, hôm nay là mùng năm.
Tèo cứ ngoái cổ lại nhìn. Còn một cánh rừng nữa là đến được con đường mòn. Trời sập tối, ve rừng kêu râm ran, tiếng khỉ vượn hú nghe não ruột.
- Mi ngồi đây, tao đi chặt sặt làm đuốc nghe!
Cũng may lúc sáng có mang theo quẹt lửa. Tôi vào lùm chặt những cây sặt khô, cái tay trái tréo ngoe chặt chút là mỏi rớt, rồi cũng đủ cho Tèo bó hai bó thật chặt. Cứ thắp mà đi, khi nào sắp hết sẽ chặt tiếp ở hai bên đường. Ánh đuốc cháy bập bùng nổ tí tách, tôi phải tránh những bụi rác khô, sợ cháy rừng. Gặp bụi chuối rừng đẵn xuống hai đứa tìm trái, chẳng có trái chín nào, trái xanh chát ngắt nên phải ăn tạm ruột cây chuối non cho đỡ đói. Giữ sức ra đến rẫy thế nào cũng tìm được bắp.
Đi một quãng phải dừng lại nghỉ vì Tèo mỏi chân, tôi cũng mỏi chân lắm. Tôi nhìn đoạn đường mình vừa đi qua, tính từng bước một. Có con gì phía sau, tôi giương cao ngọn đuốc, một con rắn hổ chúa to đang bò tới. Tôi hơi hoảng, đứa đau chân đứa đau tay làm sao chống lại được! Nọc rắn hổ chúa cực độc, nó cắn một phát là chết không kịp ngáp. Tôi giật cây nạng của Tèo giá cao đứng tấn, chờ con rắn đến sẽ phang thật mạnh vào cổ còn Tèo thủ cái câu liêm có gì thì chặt đầu. Rắn hổ phải đánh cho chết nếu không nó bò đến tận nhà trả thù. Con rắn không tiến tới mà dừng lại, đầu nằm sát xuống đất, hé mắt nhìn chúng tôi. Tôi thở phào, nó chỉ theo đóm ăn tàn chứ không tấn công người, mùng năm rắn rít sợ người. Hai đứa đứng dậy thì thụp bước tiếp, con rắn cũng rón rén bò theo.
Đi mãi đi mãi cũng đến dốc Cổ Cò, lúc này đã gần khuya, tôi đốt thêm một ngọn đuốc nữa rồi gọi to. Người dưới đồng thấy ngọn đuốc và nghe tiếng kêu sẽ chạy lên thôi. Kìa, có một nhóm người đốt đuốc từ chân núi đi lên, chắc là người nhà của chúng tôi.
Toàn thân ê ẩm, nhưng thấy mình vẫn còn may, hai đứa tôi nghêu ngao:
Ông Khuất Nguyên
Mùng năm ổng sắm nhiều đồ
Nửa trái mít chín bảy tô cháo đường…
______________
1. Loại sâu ở núi cao, rất độc.
2. Dụng cụ để tháo kẹp.
3. Làm hiệu khu vực gài kẹp bằng các hình chữ thập.