Thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 Khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội:

Tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật thống nhất, đồng bộ, phát triển thị trường lao động hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế

TS. Bùi Ngọc Thanh - Nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội

Một trong những mục tiêu quan trọng của chính sách xã hội mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 Khóa XIII (Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24.11.2023 về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới) đã xác định đến năm 2030, đó là phải “Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững”.

Nghị quyết cũng chỉ rõ: chính sách an sinh xã hội nhằm tạo cơ hội cho nhân dân, nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Hệ thống chính sách an sinh xã hội bảo đảm đầy đủ 6 tính chất như Nghị quyết đã xác định như trên bao hàm 4 loại chính sách lớn: thị trường lao động; bảo hiểm xã hội; bảo trợ xã hội; và chính sách đối với người có công. Trong đó, chính sách thị trường lao động là bao trùm, là tầng thứ nhất, được đặt lên hàng đầu, vì nó có mối quan hệ đến toàn bộ dân số và nguồn lao động của cả nước.

Phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững cho người lao động

Theo Chương III Bộ luật Lao động hiện hành, thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi giữa người sử dụng lao động với người lao động theo nguyên tắc thỏa thuận (tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực) về việc làm, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội, an toàn, vệ sinh lao động cùng các điều kiện làm việc khác thông qua Hợp đồng lao động được giao kết.

“Phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững cho người lao động” mà Nghị quyết đã xác định, từ đó sẽ hỗ trợ người lao động tiếp cận thị trường lao động, tìm kiếm được việc làm, tiến đến việc làm bền vững, có thu nhập ổn định, tự lo toan được toàn bộ hoặc một phần cuộc sống của mình, giảm bớt được các khoản trợ cấp của Nhà nước và xã hội. Đây là nhóm chính sách, là tầng nấc quan trọng bậc nhất... Song, có thể nói, thị trường lao động nước ta chỉ mới được xác lập từ khi bước vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Trải qua gần 40 năm, thị trường lao động đã có những tiến bộ nhất định cả về quy mô và chất lượng, đang từng bước hoàn thiện, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Người lao động tìm việc tại quầy tuyển dụng của Trung tâm dịch vụ việc làm TP. Hồ Chí Minh ở Bến xe An Sương. Ảnh: Thanh Vũ - TTXVN
Người lao động tìm việc tại quầy tuyển dụng của Trung tâm dịch vụ việc làm TP. Hồ Chí Minh ở Bến xe An Sương. Ảnh: Thanh Vũ

Cơ cấu lao động trên thị trường không ngừng được đổi mới do kết quả to lớn của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế. Cung lao động ngày càng đáp ứng khá hơn đối với cầu lao động, nhất là lao động có chất lượng cao, và ngày càng phù hợp với những ngành nghề tạo ra sản phẩm có giá trị cao, từng bước tạo ra nhiều việc làm bền vững cho người lao động.

Các nguồn cung lao động được chuẩn bị tốt hơn: giáo dục nghề nghiệp đang thực hiện nhiều yêu cầu về chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, quốc tế hóa..., gắn bó chặt chẽ hơn với nhu cầu của thị trường lao động; đào tạo liên thông giữa các cấp trình độ, nâng cao chất lượng đào tạo. Từng bước cung lao động ra thị trường những lao động có chuyên môn, kỹ năng nghề theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, từng bước tiếp cận kỹ năng nghề khu vực và quốc tế.

Đổi mới hoàn toàn phương thức tuyển dụng lao động. Nếu trong cơ chế kế hoạch hóa chỉ huy tuyển dụng lao động theo chỉ tiêu kế hoạch nhà nước, thì nay tuyển dụng theo nhu cầu lao động thông qua thị trường lao động. Ở cơ sở - doanh nghiệp là quan hệ hai bên (người sử dụng lao động và người lao động) giao kết hợp đồng lao động trên cơ sở đối thoại, thương lượng và đi đến thỏa thuận. Ở tầm vĩ mô là quan hệ ba bên: Nhà nước - người sử dụng lao động - người lao động, phù hợp với kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Hoạt động của thị trường lao động trở thành động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động từng bước phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lao động khu vực phi chính thức (không có quan hệ lao động) chuyển dần sang làm việc ở khu vực chính thức (có quan hệ lao động) là những doanh nghiệp sản xuất hàng hóa có giá trị, chất lượng cao.

Tính toán tổng hợp theo thông tin của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) công bố ngày 24.1.2024 và các thông tin trước đó trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục cho thấy rõ sự chuyển dịch tích cực về lao động giữa 3 khu vực. Khu vực nông, lâm, thủy sản từ 48,7% tổng số lao động làm việc năm 2010, giảm xuống 27,6% năm 2022 và còn 26,9% vào cuối năm 2023. Cũng với 3 mốc thời gian trên, khu vực công nghiệp, xây dựng lần lượt tăng từ 21,7% lên 33,3% và 33,5%. Khu vực dịch vụ tăng từ 29,6% lên 39,1% và 39,6%... Trong Nghị quyết 42-NQ/TW, Trung ương nêu rõ: “Việc làm cho người lao động cơ bản được bảo đảm, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị thấp”...        

Hệ thống thông tin thị trường lao động được hình thành với nhiều nội dung phong phú, trong đó có hệ thống dự báo cung - cầu lao động, dịch vụ tìm kiếm, chuyển đổi việc làm, kết nối cung - cầu lao động, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động cả trong nước và quốc tế. Hệ thống thông tin này cũng góp phần đáng kể làm cho thị trường lao động ngày một sôi động hơn...

Dù đã đạt được những kết quả đáng trân trọng, song thị trường lao động nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định. Nhận định tổng quát nêu trong Nghị quyết 42-NQ/TW là: “Thị trường lao động phát triển chưa đồng bộ, lao động khu vực phi chính thức còn lớn, đột phá về nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao chuyển biến chưa rõ nét”.

Có thể thấy rõ ở một số điểm sau, ở tầm vĩ mô, chính sách thị trường lao động chưa thật hoàn thiện, chưa đủ sức mạnh để giải phóng triệt để mọi nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có nguồn lực lớn nhất là sức lao động (chưa tạo được điều kiện đầy đủ để người lao động tự do hành nghề, tự do dịch chuyển, tự do lựa chọn việc làm trên thị trường lao động theo khả năng của mỗi người...). Chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa các phân khúc thị trường lao động (thị trường lao động vùng, thị trường lao động khu vực, thị trường lao động theo ngành nghề...). Thị trường lao động chưa gắn kết được với các dạng kinh tế mới (kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ...). Một số lao động đã qua đào tạo nhưng chất lượng không cao mà một trong những nguyên nhân là đào tạo theo một số tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia còn thấp; lao động kỹ thuật trình độ cao vẫn còn thiếu nhiều. Các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp chưa hoàn chỉnh, chưa gắn kết chặt chẽ với hệ thống chính sách an sinh xã hội, chưa thích ứng, phù hợp với quá trình già hóa dân số. Nhiều lao động có thu nhập tương đối cao và ổn định nhưng chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Năng lực dự báo cung - cầu lao động trên thị trường còn hạn chế, nguồn tài liệu về biến đổi của thị trường chưa được cập nhật có hệ thống đầy đủ; kết nối thị trường lao động trong nước với thị trường lao động ngoài nước mới chỉ là bước khởi động...

Từ những kết quả đã đạt được và khiếm khuyết, tồn tại đã chỉ ra cho thấy, cần khẩn trương, tích cực đổi mới, phát triển thị trường lao động theo đúng tinh thần Nghị quyết 42-NQ/TW.

Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường lao động

Nghị quyết 42-NQ/TW đã xác định một chỉnh thể gồm 8 nhiệm vụ quan trọng của việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường lao động.

Một là, đẩy mạnh chính sách dân số và phát triển theo hướng có quy mô, cơ cấu, phân bố hợp lý, cân bằng tỷ số giới tính khi sinh ở mức tự nhiên và duy trì mức sinh thay thế trên phạm vi cả nước. Hai là, tạo bước đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, trọng tâm là hiện đại hóa, đa dạng hóa phương thức giáo dục, đào tạo.

Ba là, tăng cường định hướng nghề nghiệp cho thanh niên ngay từ bậc học phổ thông; đẩy mạnh phân luồng, tăng số học sinh sau THCS, THPT vào giáo dục nghề nghiệp. Bốn là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao.

Năm là, phát triển thị trường lao động theo hướng linh hoạt, hội nhập, hiệu quả, đồng bộ với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sáu là, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ.

Bảy là, tạo việc làm cho người lao động phải gắn với mục tiêu phát triển bền vững nhằm giải phóng sức sản xuất, nâng cao tay nghề, thu nhập và bảo đảm an toàn tại nơi làm việc cho người lao động. Tám là, mở rộng tín dụng chính sách xã hội nhằm hỗ trợ vốn vay tạo việc làm, sinh kế cho người dân, nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn.

Thực thi các nhiệm vụ trên, từ thực tiễn, thiết nghĩ, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật thống nhất, đồng bộ về phát triển thị trường lao động theo hướng hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế. Hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm giải phóng triệt để sức sản xuất, sức lao động để phát huy cao độ khả năng của đội ngũ lao động cho sản xuất kinh doanh, cho tăng trưởng kinh tế. Phải hoàn thiện tiêu chuẩn kỹ năng nghề Việt Nam tương đồng, phù hợp với tiêu chuẩn kỹ năng nghề khu vực và quốc tế.

Nhà nước thiết lập hành lang pháp lý của thị trường lao động phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tiếp cận với chuẩn mực hành lang pháp lý quốc tế về thị trường lao động; hỗ trợ, tạo điều kiện để thị trường lao động phát triển nhanh, mạnh, đúng hướng và kết nối với thị trường lao động các nước trong khu vực và thế giới.

Thực hiện cung lao động ra thị trường với số lượng vượt trội lao động có chất lượng cao trên cơ sở đổi mới giáo dục, đào tạo nghề nghiệp theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề đã được “nâng cấp”. Phát triển giáo dục, đào tạo nghề nghiệp gắn với nhu cầu thực tế của thị trường lao động. Liên kết rộng rãi, chặt chẽ giữa các cơ sở giáo dục, đào tạo nghề nghiệp với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh (nghĩa là doanh nghiệp trực tiếp tham gia đắc lực vào quá trình giáo dục, đào tạo nghề nghiệp cho người lao động). Trong giáo dục nghề nghiệp còn phải chú ý đầy đủ đến giáo dục “kỹ năng mềm”, đó là kỹ năng ứng xử với đồng nghiệp, với lãnh đạo, quản lý, kỹ năng làm việc theo nhóm trong môi trường có lao động nhiều nước cùng tham gia; đào tạo công nghệ thông tin, ngoại ngữ...

Đầu tư thỏa đáng, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng thị trường lao động, đó là hệ thống dự báo cung - cầu lao động, lưu giữ và phát huy cơ sở dữ liệu về thị trường lao động, thông tin về thị trường, dịch vụ tìm kiếm, chuyển đổi việc làm... Hệ thống này phải được phát triển ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước và được chuyển đổi số để kết nối, liên thông trong nước và quốc tế.

Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với một số tổ chức quốc tế có liên quan đến công việc của thị trường lao động: Quỹ Dân số của Liên Hợp Quốc (UNFPA), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng châu Á (ADB), các tổ chức thị trường lao động các nước ASEAN... để nghiên cứu chia sẻ kinh nghiệm tổ chức vận hành và quản lý thị trường lao động, và để được hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ các nguồn tài chính...

Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường lao động theo Nghị quyết 42-NQ/TW chắc chắn sẽ từng bước thu hẹp tới mức hợp lý quy mô lao động khu vực phi chính thức; cơ cấu lao động theo các khu vực sẽ ngày càng hợp lý hơn, tiếp tục góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, hiệu quả; tạo ra nhiều chỗ làm việc, có cơ hội lớn toàn dụng các nguồn lao động cả trong và ngoài độ tuổi quy định, thích ứng với tốc độ già hóa dân số đang diễn ra.

Quốc hội và Cử tri

ĐBQH Nguyễn Thị Kim Anh phát biểu tại thảo luận tổ về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Ảnh: Hoàng Nga
Ý kiến đại biểu

Sửa Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật tạo môi trường sản xuất, kinh doanh minh bạch

Chiều 22.11, Quốc hội thảo luận ở tổ về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Thảo luận tại Tổ 13, ĐBQH Nguyễn Thị Kim Anh (Bắc Ninh) cho rằng, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật này sẽ góp phần tạo lập môi trường sản xuất, kinh doanh minh bạch, thúc đẩy phát triển thị trường thương mại. 

QH thảo luận tại Tổ
Diễn đàn Quốc hội

Cân nhắc kỹ lưỡng, đánh giá tác động toàn diện về mức thuế suất và đối tượng chịu thuế

Thảo luận tại Tổ về dự án Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi), các ĐBQH cho rằng, việc điều chỉnh mức thuế suất đối với hàng hóa, dịch vụ có tác động lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân. Do đó, cần cân nhắc kỹ lưỡng, đánh giá tác động toàn diện để đưa ra quy định phù hợp về bổ sung đối tượng nộp thuế, điều chỉnh mức thuế suất…, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người nộp thuế.

Đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương phát biểu thảo luận tổ
Quốc hội và Cử tri

Bảo đảm chế độ phù hợp đối với thành viên đoàn giám sát

Chiều nay, 22.11, thảo luận tại tổ 4 về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Thuận đã tham gia đóng góp nhiều kiến nghị thiết thực.

Thực hiện kiến nghị được chỉ rõ qua giám sát
Quốc hội và Cử tri

Thực hiện kiến nghị được chỉ rõ qua giám sát

Chiều 22.11, thảo luận tại Tổ 9, Đoàn ĐBQH các tỉnh: Quảng Ninh, Hòa Bình, Phú Yên, Bến Tre về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, các đại biểu nhấn mạnh, cần quy định cụ thể để các cơ quan chịu giám sát phải vào cuộc, thực hiện kiến nghị được chỉ rõ qua quá trình giám sát. 

Tránh lợi dụng quy định kê khai giảm nghĩa vụ nộp thuế, gây thất thu ngân sách nhà nước
Ý kiến đại biểu

Tránh lợi dụng quy định kê khai giảm nghĩa vụ nộp thuế, gây thất thu ngân sách nhà nước

Thảo luận tại Tổ 16 gồm Đoàn ĐBQH các tỉnh: Hà Tĩnh, Lai Châu, Lâm Đồng, Cà Mau về dự án Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi), các đại biểu cho rằng: Cần bảo đảm công bằng, trung lập của chính sách thuế, hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội với chính sách miễn, giảm thuế để tránh các trường hợp lợi dụng quy định kê khai giảm nghĩa vụ nộp thuế, gây thất thu ngân sách Nhà nước...

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan: Tăng thuế đối với thuốc lá, bia, rượu và đồ uống có đường là cần thiết để bảo vệ sức khỏe Nhân dân
Ý kiến đại biểu

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan: Tăng thuế đối với thuốc lá, bia, rượu và đồ uống có đường là cần thiết để bảo vệ sức khỏe Nhân dân

Góp ý vào Dự thảo Luật Thuế Tiêu thụ Đặc biệt (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, Bộ Y tế hoàn toàn nhất trí với mục đích, quan điểm và sự cần thiết ban hành dự án Luật Thuế TTĐB (sửa đổi), đặc biệt là định hướng tăng thuế đối với các hàng hóa có hại cho sức khỏe như thuốc lá, rượu bia, và bổ sung đồ uống có đường vào danh mục chịu thuế.

Ảnh minh họa
Chính sách và cuộc sống

Phân cấp, phân quyền cho doanh nghiệp

Theo chương trình nghị sự, sáng mai, 23.11, Quốc hội sẽ thảo luận tại tổ về dự án Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Để nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước tương xứng với nguồn vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, bảo đảm doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, dự thảo Luật cần thể hiện rõ hơn tinh thần phân cấp, phân quyền cho doanh nghiệp, tránh tình trạng can thiệp hành chính vào công việc quản trị của doanh nghiệp.

Động lực để Huế phát triển nhanh và mạnh mẽ hơn nữa
Diễn đàn Quốc hội

Động lực để Huế phát triển nhanh và mạnh mẽ hơn nữa

Nhất trí việc thành lập thành phố Huế trực thuộc Trung ương là phù hợp với lịch sử hình thành và phát triển của đô thị Huế, các đại biểu Quốc hội đề xuất nhiều giải pháp nhằm thực hiện thành công Đề án. Trong đó, cần làm rõ các giải pháp đồng bộ về cơ chế, chính sách để phát huy cao nhất tiềm năng, nguồn lực của thành phố Huế và của Trung ương cho đầu tư phát triển.

Giảm thu trước mắt, hiệu quả lâu dài
Chính sách và cuộc sống

Giảm thu trước mắt, hiệu quả lâu dài

Từ năm 2022 đến nay, việc giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) được triển khai đã tạo ra những tác động tích cực đến nền kinh tế. Như năm 2022, việc giảm thuế đã giúp doanh nghiệp và người dân tiết kiệm được khoảng 51,4 nghìn tỷ đồng, góp phần thúc đẩy tiêu dùng và làm tăng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng lên 19,8% so với năm 2021.

ĐBQH Nguyễn Phương Thủy phát biểu tại thảo luận Tổ 1
Ý kiến đại biểu

Đặc biệt quan tâm đến việc chuyển giao công nghệ

Thảo luận tại Tổ 1 về chủ trương đầu tư dự án Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, các đại biểu của Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội đều chung đánh giá, đây là dự án bảo đảm cân bằng, hướng đến phát triển bền vững phương thức vận tải. Đáng chú ý, quá trình thực hiện cần quan tâm tới việc chuyển giao công nghệ của dự án bởi đây là một trong những vấn đề cốt lõi trong vận hành, làm chủ kỹ thuật của dự án sau này.

Quốc hội thảo luận về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam
Diễn đàn Quốc hội

Sẽ tạo bước đột phá trong phát triển hạ tầng giao thông

Thảo luận tại Hội trường về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, các đại biểu Quốc hội nhất trí với sự cần thiết đầu tư dự án để thể chế hóa chủ trương của Đảng, tạo bước đột phá trong phát triển, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng giao thông. Đồng thời, tin tưởng, với sự huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, dự án sẽ sớm được hiện thực hoá thành công, phát huy hiệu quả, đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước cả trước mắt và tương lai lâu dài.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh điều hành phiên họp
Quốc hội và Cử tri

Nhanh chóng giải quyết khó khăn về đời sống nhà giáo

Cho ý kiến về dự thảo Luật Nhà giáo, nhiều đại biểu cho rằng, việc quy định tiền lương nhà giáo ở cơ sở giáo dục công lập được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp sẽ giải quyết được những khó khăn về đời sống của nhà giáo. Đồng thời, khuyến khích thu hút nguồn nhân lực và những người giỏi tham gia vào ngành sư phạm nhiều hơn, giúp ngành giáo dục ngày càng bảo đảm về số lượng và tốt về chất lượng.

Không được công khai thông tin về sai phạm của nhà giáo khi chưa có kết luận chính thức của cơ quan có thẩm quyền
Ý kiến đại biểu

Không được công khai thông tin về sai phạm của nhà giáo khi chưa có kết luận chính thức của cơ quan có thẩm quyền

Góp ý vào Dự thảo Luật nhà giáo sáng 20.11, ĐBQH Nguyễn Thị Hà (Bắc Ninh) cho rằng Nhà giáo nếu có sai phạm thì đã có các chế tài xử lý theo quy định, nhưng đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của nhà giáo có tính chất đặc biệt, nhất là khi nhà giáo trực tiếp đứng lớp, trực tiếp có ảnh hưởng lớn đối với tâm lý của người học. Vì vậy, nếu không có phương án bảo vệ nhà giáo thì đối tượng chịu ảnh hưởng không chỉ là nhà giáo mà còn là hàng triệu tương lai của đất nước.

ĐBQH tỉnh Ninh Thuận Chamaléa Thị Thủy phát biểu thảo luận tại hội trường. Ảnh: Hồ Long
Quốc hội và Cử tri

Quan tâm trước đến đến nhà giáo làm việc ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn

Thảo luận tại hội trường sáng nay, 20.11 về dự án Luật Nhà giáo, ĐBQH tỉnh Ninh Thuận Chamaléa Thị Thủy thống nhất với chủ trương luôn xem giáo dục là quốc sách trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước; việc chăm lo về chế độ, chính sách, tôn vinh đội ngũ làm công tác giáo dục cần phải được chú trọng. Đồng thời, đại biểu cho rằng quan tâm trước đến đội ngũ nhà giáo đang làm việc ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn; giáo viên mầm non; giáo viên dạy cho các đối tượng khuyết tật.