Góp ý Quy hoạch tổng thể Quốc gia

DIỄN BIẾN CỦA MỘT SỐ CHỈ SỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2021

Nguyễn Ngọc Trân [1]

Trong khung khổ bài viết này, diễn biến của một số chỉ số có liên quan đến đề xuất các mục tiêu của QHTTQG được khảo sát. Kết quả đồng thời cung cấp thêm thông tin về tình hình kinh tế xã hội của đất nước. Nguồn số liệu là từ Tổng Cục Thống kê và từ cơ sở dử liệu của Ngân hàng thế giới và của Liên Hiệp Quốc.

1. Dân số

Cơ sở dữ liệu của Ngân hàng thế giới (World Bank Database, WBD) có số liệu về dân số của Việt Nam từ năm 1960. Số liệu của cơ sở dữ liệu của Tổng Cục Thống kê (TCTK) mà tác giả tham khảo được bắt đầu từ năm 1990.

DIỄN BIẾN CỦA MÔT SỐ CHỈ SỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2021 -0

Trong 62 năm (1960-2021), dân số Việt Nam tăng bình quân năm 1,1141 triệu người/năm. Khảo sát nhuyễn hơn, có 3 giai đoạn: (1960-1981), tăng ít hơn, 1,0848 triệu người /năm; (1982-1997) tăng mạnh hơn 1,3857 triệu người/năm; (1998-2021) tăng chậm lại, 0,8719 triệu người/năm. Hệ số R2 = 0.9984 gợi ý ngoại suy xu hướng giai đoạn này, dân số Việt Nam sẽ đạt khoảng 101,4 triệu người vào năm 2025.

Số liệu của TCTK cho thấy trong 32 năm (1990-2021) dân số Việt Nam tăng bình quân 1,0223 triệu người/năm; trong giai đoạn (2000-2021) tăng 0,995 triệu người /năm; trong 11 năm (2011-2021) tăng 1,042 triệu người/năm. Ngoại suy xu hướng này đến năm 2025, dân số Việt Nam sẽ vào khoảng 102,750 ngàn người.

Dự báo dân số Việt Nam 2019-2069 [1], xuất bản ngay sau Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, cung cấp số liệu dân số vào năm 2025 là 101,571 triệu người và năm 2030 là 105,219 triệu người.

Dự báo dân số trong hai kịch bản vào năm 2025, 105,2 triệu người đúng với ngoại suy từ số liệu của WBD (1960-2021) nhưng cao hơn các ngoại suy xu hướng từ (1998-2021, WBD) là 101.4 triệu, và của Dự báo Dân số Việt Nam (2019-2069).  

2. Lao động

(2.1) Trong Hình 2 (bên trái) là đồ thị của lực lượng lao động [2] (LLLĐ) (TCTK) và Labor Force (LF) (WBD) [3] trong 32 năm (1990-2021).

Sau năm 2019, lực lượng lao động được tính theo tiêu chuẩn mới ICLS19, theo đó những người làm việc với mục đích sản xuất sản phẩm tự cung tự cấp trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản sẽ không được xác định là những người có việc làm như quy định trước đây của tiêu chuẩn ICLS13. Điều này đã thể hiện qua sự sụt giảm số liệu hai năm 2020 và 2021.

Nhìn chung trong 32 năm lực lượng lao đông trải qua ba giai đoạn (a) tăng bình quân 0,704 triệu người/năm (1990-2001; số liệu TCTK), 0,710 triệu người/năm (1990-2003; số liệu WBD); (b) tăng nhanh bình quân 1,224 triệu người/năm (2002-2013; số liệu TCTK), 1,228 triệu người/năm (2004-2013; số liệu WBD); (c) tăng chậm lại bình quân 0,223 triệu người/năm (2014-2021; số liệu WBD). Với tốc độ tăng chậm lại này thì ngoại suy đến năm 2025 lực lượng lao động sẽ là 57,1 triệu người. Không ngoại suy với số liệu của TCTK vì những thay đổi năm 2020 và 2021.

DIỄN BIẾN CỦA MÔT SỐ CHỈ SỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2021 -1

Trong 32 năm, cả hai chỉ số đều tăng. Ba giai đoạn tăng, tăng nhanhtăng chậm lại, tuy số liệu và thời điểm có chênh nhau, cũng đã thể hiện trong Hình 2 (bên phải), và trong một chừng mực nhất định, phản ánh sự bùng nổ dân số sau chiến tranh, thời kỳ cơ cấu dân số vànggiai đoạn khởi đầu của già hóa dân số.

(2.2) Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động

Kho dữ liệu lao động và việc làm (TCTK) xác định ba tỷ lệ tham gia lực lượng lao động: (a) thô (là số phần trăm lực lượng lao động chiếm trong tổng dân số); (b) chung (thô và chỉ tính những người trong độ tuổi có khả năng lao động); (c) trong độ tuổi lao động (số phần trăm những người trong độ tuổi lao động tham gia lao động trong tổng dân số trong độ tuổi lao động) [4]. Hiện nay TCTK sử dụng hai thuật ngữ tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chungtỷ lệ tham gia lực lượng lao động trong độ tuổi lao động. Hai tỷ lệ này sẽ thay đổi bởi tiêu chuẩn mới ICLS19.

Trong CSDL WBD có chỉ số “labor force participation rate”, (tỷ lệ tham gia lực lượng lao động) được Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) ước tính bằng mô hình. Tỷ lệ là tỷ số những người tham gia hoạt động kinh tế [5] trên lực lượng lao động. Hai loại hình được ước tính: (a) Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế (sau đây được ký hiệu PR15+); (b) Tỷ lệ dân số trong độ tuổi 15-64 tuổi tham gia hoạt động kinh tế (PR(15-64)).

DIỄN BIẾN CỦA MÔT SỐ CHỈ SỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2021 -2

Hình 3a là đồ thị của hai tỷ lệ tham gia lao động PR(15-64) và PR15+ trong 32 năm. Hình 3b là đồ thị của LF, LF_PR(15-64) và LF_PR15+. Hình 3c là đồ thị của LF_PR(15-64) của 5 nước Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam.

3. Tổng sản phẩm trong nước (GDP), Tổng thu nhập quốc gia (GNI)

DIỄN BIẾN CỦA MÔT SỐ CHỈ SỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2021 -3

Hình 4 hiển thị hai chỉ số GDP và GNI và chênh lệch (GDP - GNI) [6], số liệu của TCTK, từ năm 1990 đến 2021. Xu hướng diễn biến của chênh lệch tăng bình quân 21,2 tỷ đồng hiện hành năm trong 18 năm (2004-2021), và tăng nhanh hơn, 33,2 tỷ đồng hiên hành trong 12 năm (2010-2021).

WBD cho chúng ta Hình 5 trong đó bên trái là GDP theo giá LCU (Local Currency Unit, đối với Việt Nam là VNĐ) hiện hành và USD hiện hành, và tỷ lệ chuyển đổi từng năm (bên phải), trên đó có đánh dấu những sự kiện đã có thể có tác động đến phát triển kinh tế xã hội và đến tỷ lệ chuyển đổi.

DIỄN BIẾN CỦA MÔT SỐ CHỈ SỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2021 -4

Tốc độ tăng trưởng của GDP được thể hiện trong Hình 6 với số liệu của TCTK (trái) và của WBD (phải). Nếu không kể hai năm 2020 và 2021, tốc độ tăng trưởng của GDP biến động trong khoảng [5.5 – 7.8] (TCTK) và [5,4 – 7.6] (WBD).

Trong 15 năm (2001-2015) tốc độ tăng trưởng của GDP là 6,61. Trong 10 năm (2001 – 2010) tốc độ tăng trưởng là 6,82, và trong 10 năm (2011-2020) là 6.21. Xem Bảng.

DIỄN BIẾN CỦA MÔT SỐ CHỈ SỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2021 -5

4. GDP và GNI bình quân người năm

DIỄN BIẾN CỦA MÔT SỐ CHỈ SỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2021 -6
Hình 7 bên trái hiển thị GDP và GNI bình quân người năm (số liêụ TCTK).

Từ năm 2010 đến năm 2021, GDP bình quân người năm tăng 4,583 triệu đồng /năm trong khi GNI tăng bình quân 4,506 triệu đồng/năm.

Bên phải là số liệu GNI bình quân người năm, đơn vị tính là ngàn LCU và theo US$ hiện hành (số liệu từ WBD). Trong các năm (2005-2021) GNI bình quân người/năm tăng 4,749 triệu đơn vị LCU. Trên đồ thị còn có tỉ lệ chuyển đổi US$ và đơn vị tiền tệ LCU.

5. Năng suất lao động bình quân/laođộng/năm

Hình 8 thể hiện GDP, lao động, NSLĐ bq/lđ/năm theo số liệu của TCTK (VNĐ giá so sánh 2010) (trái), và theo số liệu của WBD (US$ hiện hành) (phải).

DIỄN BIẾN CỦA MÔT SỐ CHỈ SỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2021 -7

Năm 2021, NSLĐ bq/lđ/năm đạt 97,754 triệu đồng (giá so sánh 2010). Từ năm 2013 đến 2021, tốc độ tăng bình quân là 4,612 triệu đồng/năm. Trong khi đó, theo số liệu của WBD, NSLĐ bq/lđ/năm đạt 6458,3 US$ hiện hành. Từ năm 2005 đến 2021, tốc độ tăng bình quân là 336,2 US$/năm.

Tỷ lệ chuyển đổi giữa LCU hiện hành và US$ hiện hành đã được thể hiện trong Hình 5 (phải). Tỷ lệ chuyển đổi giữa LCU cố định và USD cố định 2015 là một hằng số và bằng 15449,5.

6. Về tích lũy tài sản

DIỄN BIẾN CỦA MÔT SỐ CHỈ SỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2021 -8

Trong Hình 9a chúng ta có, từ số liệu của TCTK, các chỉ số GDP, tích lũy tài sản (TLTS) theo giá 2010 và tỷ lệ TLTS/GDP từ năm 1990 đến năm 2021 (bên trái); GDP. TLTS theo giá hiện hành, và tỷ lệ từ năm 2010 đến năm 2021 (bên phải).

Trong Hình 9b, chúng ta có, từ cơ sở dử liệu UN Database, các chỉ số GDP, tỷ lệ TLTS, tỷ lệ TLTS cố định theo giá ss 2010 (trái) và theo giá hiện hành (phải). 

DIỄN BIẾN CỦA MÔT SỐ CHỈ SỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2021 -9

Theo giá 2010, tỷ lệ TLTS/GDP có xu hướng tăng trong khoảng từ 33,35% đến 37,47%, trong lúc theo giá hiện hành xu hướng giảm từ 38,14% xuống 34,1% (Hình 9a). Các xu hướng này cũng được thể hiện trong Hình 9b trong các khoảng lần lượt là (31,3% – 37,6%) và (35,7% – 33,4%).

Cơ sở dữ liệu WBD, không có số liệu về chỉ số GCF của Việt Nam, Hình 9c là GCF của các nước Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan và của các nước Đông Á - Thái Bình Dương không tính các nước có thu nhập cao.

DIỄN BIẾN CỦA MÔT SỐ CHỈ SỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2021 -10

Trong 22 năm (2000-2021) các nền kinh tế Đông Á – Thái Bình Dương không kể các nền kinh tế thu nhập cao, tỷ lệ TLTS/GDP nằm trong khoảng (thấp nhất 30% năm 2000 – cao nhất 43% năm 2013); Indonesia khoảng này là (21% 2005, 35% 2012); Malaysia (18% 2009, 26% 2013); Phillippines (16% 2000, 27% 2018) Thái Lan (21% 2009, 30% 2005).   

7. Về tổng vốn đầu tư toàn xã hội và hệ số ICOR

Từ số liệu của TCTK, Hình 10 cho chúng ta đồ thị của GDP, của vốn đầu tư toàn xã hội, theo giá so sánh 2010, và tỷ lệ giữa hai chỉ số từ năm 2004 đến năm 2021.

Trong 19 năm tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội trên GDP biến động trong khoảng từ 30,98% đến 39,74%; tăng nhanh hơn từ năm 2011 đến 2021.

DIỄN BIẾN CỦA MÔT SỐ CHỈ SỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2021 -11

Cơ cấu của ba khu vực vốn nhà nước, ngoài nhà nước và có vốn nước ngoài trong tổng vốn đầu tư được thể hiện trong Hình 10 (bên phải). Khu vực vốn nhà nước biến động giữa 24% và 36% và đang có xu hướng giảm. Khu vực vốn đầu tư ngoài nhà nước biến động giữa 44,6% và 59,4%, theo xu hướng tăng. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, giữa 20,53% và 16,11% trong xu hướng giảm.

Hệ số ICOR hàng năm và từng thời đoạn được trình bày trong Hình 11.

DIỄN BIẾN CỦA MÔT SỐ CHỈ SỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2021 -12

Hai năm 2020 và 2021 hệ số ICOR tăng vọt 14,2715,54 vì nhiều lý do trong đó có GDP tăng chậm lại vì Covid-19. Hệ số ICOR 17 năm (2005 -2021) là 6,89; 11 năm (2011 – 2021) là 6,9; 6 năm (2016 – 2021) là 7,55.

Giả thiêt ICOR bằng 4,9 trong giai đoạn (2021-2030) là một thách thức lớn vì đầu tư công đang được đẩy mạnh cho nhiều công trình hạ tấng quốc gia. Đưa ICOR về 4,9 đòi hỏi hiệu quả đầu tư toàn xã hội phải sớm phát huy tác dụng.

8. Một tiếp cận năng suất của nhân tố tổng hợp (Total Factor Productivity)

Giả thiết rằng tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước (GDP) là kết quả của hoạt động và năng suất của các nhân tố lao động, vốn và các nhân tố tổng hợp, Tổng Cục Thống kê đã tính toán tốc độ tăng trưởng của TFP và đóng góp của chỉ số này vào tốc độ tăng trưởng của GDP cùng với tốc độ tăng trưởng và đóng góp của nhân tố lao động (L) và nhân tố vốn (K) [7].

GDP, K được cập nhật theo giá so sánh 2010 và L được hiển thị trong Hình 12A.

Tốc độ tăng TFP được xác định bằng công thức:  GGDP = GTFP + bK*GK + bL*GL

trong đó GGDP, GK, GL lần lượt là tốc độ tăng trưởng của GDP, của nhân tố vốn K, của nhân tố lao động L; bK và bL là hệ số góc của vốn K và lao động L với giá trị được tính từ bảng cân đối liên ngành năm 2012 (IO 2012), bằng 0.6 và 0.4. Tỷ trọng của GTFP, GKGL trong tốc độ tăng trưởng GDP, GGDP, được suy ra từ công thức trên: 1 = GA/GGDP + bK*GK/GGDP + bL*GL/GGDP.

Trong Hình 12B là đồ thị của tốc độ tăng trưởng của GDP, của L và của K từ năm 2000 đến 2021. Hình 12C hiển thị tốc độ tăng trưởng của GDP, của L và của K từ năm 2007 đến 2019. Các tỷ trọng GA/GY, GK/GY và GL/GY từ năm 2007 đến năm 2019 được trình bày trong Hình 12D.

DIỄN BIẾN CỦA MÔT SỐ CHỈ SỐ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2021 -13

Hình 12C cho thấy trong khi tốc độ tăng trưởng của GDP dao động trong khoảng (5,4 - 7,47), xu hướng giảm của tốc độ GK, của tốc độ GL là khá rõ, cũng như khá rõ là xu hướng tăng của GTFP mà phương trình xu hướng tuyến tính là Y = 0.4271X - 857.98; R2= 0.8867.

Hình 12D cho thấy xu hướng biến động của các tỷ trọng GTFP/GGDP, GK/GGDP và GL/GGDP từ năm 2007 đến năm 2019 là khá rõ. Trong khi GK/GGDP và GL/GGDP có xu hướng giảm thì GTFP/GGDP có xu hướng tăng, Y = 6.1242X - 12303; R2= 0.8398.

Xu hướng tăng của GTFP và của tỷ trọng GTFP/GGDP là điều đáng khích lệ và cần được hỗ trợ mạnh mẽ vì đó là kết quả của đổi mới công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động của công nhân, …

Biến động của các chỉ số trong hai năm 2020, 2021 do đại dịch Covid-19 lên nền kinh tế trong 2 năm 2020 và 2021 cũng đã được tính đến. Số liệu có thay đổi, hệ sô R2 không tốt bằng, nhưng những nhận xét trên đây từ Hình 12C và D theo tác giả vẫn có giá trị tham khảo.

Tác giả chân thành cảm ơn Tổng Cục Thống kê đã chia sẻ số liệu và trao đổi về Đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế.

[1] Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn (2019-2069), Tổng Cục Thống kê, Hà Nội, 11/2020.

[2] Lực lượng lao động (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế hiện tại) bao gồm những người từ 15 tuổi trở lên có việc làm (đang làm việc) và những người thất nghiệp trong thời kỳ tham chiếu (7 ngày trước thời điểm quan sát). KHO DU LIEU LAO DONG VA VIEC LAM (thongke.gov.vn)

[3] Labor force comprises people ages 15 and older who supply labor for the production of goods and services during a specified period. WBDatabase.

[4] KHO DU LIEU LAO DONG VA VIEC LAM (thongke.gov.vn) . Tác giả chưa tìm được số liệu tương ứng.

[5] Labor force participation rate is the proportion of the population ages 15 and older that is economically active: all people who supply labor for the production of goods and services during a specified period.

[6] Chênh lêch là thu nhập thuần tuý từ nước ngoài.

[7] Đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế (cập nhật GDP và TLTS theo quy mô mới) Thông báo cho tác giả ngày 03/09/2022.

Quốc hội và Cử tri

Cần chế tài mạnh bảo vệ dữ liệu cá nhân
Chính sách và cuộc sống

Chế tài mạnh bảo vệ dữ liệu cá nhân

Chuyển đổi số diễn ra nhanh chóng, sâu rộng trên hầu hết các lĩnh vực khiến dữ liệu cá nhân được chuyển lên môi trường điện tử thường xuyên, liên tục hơn, kéo theo đó là tình trạng lộ, mất dữ liệu cá nhân cũng diễn ra ngày càng phổ biến; tình trạng mua bán dữ liệu cá nhân dù pháp luật đã có quy định không cho phép dưới mọi hình thức nhưng thực tế vẫn diễn ra phổ biến, công khai, nhiều hành vi chưa thể xử lý được vì thiếu quy định của pháp luật.

ĐBQH Đỗ Thị Lan (Quảng Ninh)
Quốc hội và Cử tri

Xem xét lộ trình điều chỉnh thuế hợp lý, có độ trễ để doanh nghiệp chuẩn bị

"Cần xem xét lộ trình điều chỉnh thuế hợp lý, có độ trễ tối thiểu một năm để doanh nghiệp có thời gian chuẩn bị và người tiêu dùng có thời gian thích nghi. Nghiên cứu áp dụng phương pháp đánh thuế dựa trên hàm lượng cồn thay vì đánh đồng theo giá trị sản phẩm, vừa công bằng, vừa góp phần định hướng tiêu dùng có trách nhiệm". Đây là đề xuất được đại biểu Quốc hội đưa ra khi thảo luận về dự án Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi).

Hiệu quả thiết thực và toàn diện
Quốc hội và Cử tri

Hiệu quả thiết thực và toàn diện

Phát biểu tại Lễ phát động phong trào "Bình dân học vụ số" diễn ra mới đây, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh, đây phải trở thành một phong trào cách mạng, toàn dân, toàn diện, bao trùm, sâu rộng, không ai bị bỏ lại phía sau. Đảng đã chỉ đạo, Chính phủ đã thống nhất, Quốc hội đồng tình, Nhân dân ủng hộ, Tổ quốc mong đợi thì chỉ bàn làm, không bàn lùi.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi chủ trì phiên họp phát biểu
Diễn đàn Quốc hội

Cần chính sách đủ mạnh để khuyến khích phục hồi doanh nghiệp

Dự án Luật Phá sản (sửa đổi) dự kiến sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ Chín tới, trong đó có một điểm mới nổi bật là bổ sung quy định về phục hồi doanh nghiệp trước khi phá sản. Tại phiên họp mở rộng của Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính thẩm tra dự án Luật này, các đại biểu đề nghị, cần rà soát, nghiên cứu để có khung pháp lý, chính sách đủ mạnh nhằm khuyến khích thực hiện phục hồi doanh nghiệp.

AMH
Chính sách và cuộc sống

Cải cách thủ tục giải thể doanh nghiệp

Thủ tục thành lập doanh nghiệp khá dễ dàng nhưng thủ tục giải thể “cực kỳ khó khăn”. Đây là phản ánh của doanh nghiệp tham gia cuộc khảo sát thực trạng cung cấp, thực hiện thủ tục hành chính cho doanh nghiệp năm 2024 do Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV - thuộc Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng) thực hiện.

Cần tập trung chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân trong nước phát triển
Quốc hội và Cử tri

Cần chiến lược bài bản với những nhóm giải pháp mang tính đột phá cao

Trao đổi với phóng viên Báo ĐBND, Ủy viên là đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tại Ủy ban Kinh tế và Tài chính PHAN ĐỨC HIẾU cho rằng, để kinh tế tư nhân trở thành động lực tăng trưởng quan trọng hàng đầu của đất nước như yêu cầu của Tổng Bí thư Tô Lâm trong bài viết "Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng”, thì cần có một chiến lược bài bản với những nhóm giải pháp được tinh chỉnh, mang tính đột phá cao, phù hợp với bối cảnh mới, yêu cầu mới.

ĐBQH Trần Văn Khải (Hà Nam): Sửa đổi Luật Việc làm là cơ hội vàng để thể chế hóa các định hướng lớn của Nghị quyết 57, biến chính sách việc làm thành lợi thế cạnh tranh trong kỷ nguyên số
Chính sách và cuộc sống

Tranh thủ tối đa "cơ hội vàng"

Phát triển việc làm bền vững, biến chính sách việc làm thành lợi thế cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số và trong bối cảnh tinh gọn bộ máy - dù khó nhưng chúng ta có thể và phải làm được điều này, trước hết là phải tranh thủ tối đa "cơ hội vàng" từ sửa đổi toàn diện Luật Việc làm.

Xem xét tăng thời hạn của giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất hóa chất
Quốc hội và Cử tri

Xem xét tăng thời hạn của giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất hóa chất

Quan tâm đến thời hạn của giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất hóa chất quy định tại dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi), các đại biểu Quốc hội tham dự Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 7 đề nghị tăng thời hạn của giấy chứng nhận là trên 5 năm. Bởi, thời hạn trên là quá ngắn, gây khó khăn cho các tổ chức, cá nhân sản xuất hóa chất có điều kiện.

Cơ chế trả lương cần gắn với vị trí việc làm, năng lực
Quốc hội và Cử tri

Cơ chế trả lương cần gắn với vị trí việc làm, năng lực

Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao giai đoạn 2021 - 2024 trên địa bàn, Đoàn ĐBQH tỉnh Hà Giang đề nghị, Chính phủ ban hành các chính sách ưu đãi mạnh mẽ đối với nhân lực chất lượng cao, bao gồm các cơ chế về tiền lương, phúc lợi và hỗ trợ thuế đối với các chuyên gia, giảng viên và nhà nghiên cứu. Cùng với đó, cơ chế trả lương cần gắn với vị trí việc làm, năng lực và mức độ đóng góp, tạo động lực làm việc, thu hút và giữ chân nhân tài.

Ảnh minh họa
Chính sách và cuộc sống

Tạo thuận lợi cho nhà giáo khi thuyên chuyển

Dự thảo Luật Nhà giáo vừa được cho ý kiến tại Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 7. Dự thảo luật đã khắc phục những khó khăn, vướng mắc, giải quyết các vấn đề phát sinh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về nhà giáo. Tuy vậy, đối với vấn đề thuyên chuyển nhà giáo của các cơ sở giáo dục công lập, cũng có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể, chặt chẽ để giáo viên không gặp khó khi thuyên chuyển.

ĐBQH Nguyễn Trường Giang (Đắk Nông)
Quốc hội và Cử tri

Cân nhắc tăng thuế đối với xe ô tô pick - up chở hàng cabin kép theo lộ trình

Lưu ý nếu quy định tăng thuế cao đối với xe ô tô pick - up chở hàng cabin kép ngay trong một lần như dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) sẽ gây tác động tới tâm lý khách hàng, làm giảm lượng tiêu thụ xe, một số đại biểu Quốc hội đề nghị cân nhắc quy định lộ trình tăng thuế trong vòng 3 năm, từ năm 2027 - 2030, mức tăng thêm 3%/năm tương đương với việc chia đều mức tăng 9% trong 3 năm, áp dụng từ năm 2027.

Dựa vào nội lực để phát triển
Chính sách và cuộc sống

Dựa vào nội lực để phát triển

Theo số liệu thống kê, khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 51% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước, tạo ra hơn 40 triệu việc làm, chiếm hơn 82% tổng số lao động trong nền kinh tế, đóng góp gần 60% vốn đầu tư toàn xã hội. Điều này cho thấy, kinh tế tư nhân đã và đang trở thành một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế, là động lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng.

Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương điều hành phiên thảo luận
Quốc hội và Cử tri

Tăng cường quyền kiểm soát của người dân đối với dữ liệu cá nhân

Trong kỷ nguyên số, dữ liệu cá nhân được coi là tài sản phi truyền thống và có liên quan chặt chẽ tới quyền con người, quyền công dân, an toàn, an ninh mạng, an ninh thông tin, an ninh dữ liệu, công nghệ thông tin… Thảo luận về dự án Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, các đại biểu Quốc hội đề nghị, dự thảo Luật cần tăng cường quyền kiểm soát của người dân đối với dữ liệu cá nhân và quy định chế tài có tính răn đe cao đối với những hành vi xâm phạm.

ĐBQH Nguyễn Trường Giang (Đăk-Nông) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Quốc hội và Cử tri

Nghiên cứu kỹ lưỡng chính sách thuế liên quan đến phát triển khoa học, công nghệ

Cho ý kiến về dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi), các đại biểu Quốc hội cho rằng, việc ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp là rất quan trọng và ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư cũng như sự phát triển của doanh nghiệp, vì vậy, cần rà soát bảo đảm thể chế hóa đầy đủ và toàn diện các nội dung liên quan đến chính sách ưu đãi về thuế, trong đó có lĩnh vực khoa học, công nghệ.

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan điều hành thảo luận về dự án Luật Công nghiệp công nghệ số
Quốc hội và Cử tri

Đổi mới tư duy, tránh quản lý quá thận trọng

Thảo luận về dự án Luật Công nghiệp công nghệ số, tại Hội nghị đại biểu Quốc hội (ĐBQH) hoạt động chuyên trách lần thứ 7, một số ĐBQH cho rằng, dự thảo Luật cần cụ thể hóa đầy đủ Nghị quyết số 57 – NQ/TW của Bộ Chính trị, nhất là yêu cầu đổi mới tư duy quản lý, tránh tư duy "không quản được thì cấm", mở đường cho công nghệ mới qua cơ chế thử nghiệm có kiểm soát. Bởi, nếu quản lý quá thận trọng sẽ kìm hãm đổi mới sáng tạo, khiến doanh nghiệp e ngại thử nghiệm công nghệ mới tại nước ta.

AMH
Quốc hội và Cử tri

Chống quảng cáo vi phạm trên mạng

Trong những năm gần đây, chống quảng cáo vi phạm pháp luật trên mạng dường như trở thành một cuộc chiến "nhọc nhằn". Quy định giám sát nội dung trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo, được thảo luận tại Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách hôm nay, có thể trở thành công cụ hữu hiệu nếu được vận dụng đúng cách.

Đại biểu Quốc hội Ma Thị Thúy (Tuyên Quang) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Chính trị

Cần có chế tài xử lý khi doanh nghiệp không báo cáo hàng năm

Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) quy định, trong thời hạn 5 năm kể từ ngày hóa chất mới được đăng ký, hằng năm, tổ chức, cá nhân có hoạt động hóa chất liên quan đến hóa chất mới phải báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quá trình hoạt động với hóa chất mới. Do đó, đại biểu Quốc hội Ma Thị Thúy (Tuyên Quang) đề nghị, cần bổ sung vào dự thảo Luật quy định về việc giao Chính phủ quy định chế tài xử lý với trường hợp không báo cáo hàng năm.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh phát biểu
Chính trị

Đánh giá kỹ lưỡng câu chuyện dạy thêm, học thêm

Tại Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 7, các ý kiến đề nghị tiếp tục nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng câu chuyện dạy thêm, học thêm, đặc biệt là triển khai Thông tư số 29/2024/TT-BGDĐT quy định về dạy thêm, học thêm để quy định nội dung này trong dự thảo Luật Nhà giáo.