Quản trị đất đai không thể “tù mù”

ĐBQH Trương Văn Vở (Đồng Nai) 11/11/2015 08:24

Báo cáo kết quả giám sát của UBTVQH, cùng các báo cáo có trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan đã cung cấp cho QH bức tranh rất rõ nét, công phu, chi tiết về thực trạng sắp xếp đổi mới các công ty nông, lâm nghiệp trong 10 năm qua. Tuy vậy, để góp phần hoàn thiện nội dung nghị quyết của QH sau giám sát, nhằm thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị trong thực tế, tôi đề nghị QH quan tâm và thống nhất giải quyết 5 yêu cầu sau:

Thứ nhất, phải kịp thời rà soát, tạo sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý và quản trị doanh nghiệp. Theo đó, cần triển khai việc sắp xếp đổi mới nông, lâm trường trong sản xuất, hoạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Luật Doanh nghiệp, khắc phục tình trạng hiện nay chỉ mới thay đổi về hình thức tổ chức quản lý, bình mới nhưng rượu cũ. Thực tế cho thấy, một số đơn vị thành viên của Tập đoàn Cao su Việt Nam, Tổng công ty cà phê Việt Nam, cũng như một số công ty lâm nghiệp kinh doanh có hiệu quả là nhờ việc tạo cơ sở pháp lý về quản lý đất đai. Điều đó cho thấy, phải có hồ sơ địa chính, mốc giới đầy đủ, quản lý chặt chẽ mới không xảy ra tranh chấp. Ngược lại, đất đai không rõ ràng dễ dẫn đến tình trạng khoán trắng, phát canh thu tô, lấn chiếm đất đai, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Quản trị đất đai không thể “tù mù” ảnh 1

Thứ hai, phải coi quyền, lợi ích của người dân là trọng tâm cần hướng đến. Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị yêu cầu phải rà soát, lập, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, sử dụng đúng mục đích từng loại đất và giao đất, có hồ sơ địa chính đầy đủ theo quy định của pháp luật. Nông, lâm trường sử dụng đất hiệu quả thấp, để hoang hóa phải thu hồi giao địa phương quản lý nhằm bảo đảm thực hiện cơ chế quản trị đất đai, theo hướng lấy sự tham gia của người dân làm trọng tâm. Điều 199, Điều 200 Luật Đất đai năm 2013 đã quy định rõ quyền giám sát, đánh giá công khai, minh bạch về quản lý đất đai thuộc về nhân dân, phải dựa trên cơ sở pháp lý, chứ không thể trên bản đồ, trên giấy. Trong khi đó, qua báo cáo tôi thấy diện tích bàn giao cho địa phương quản lý trên giấy gần 900.000ha. Quản trị đất đai phải theo hướng công khai diện tích, giao cho công ty nông, lâm nghiệp quản lý, không để tù mù như hiện nay.

Thứ ba, phải xem nông, lâm trường là lực lượng chủ lực của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp. Bởi lẽ, thực tiễn đã chứng minh đơn vị nào thực hiện vai trò trung tâm ứng dụng chuyển giao công nghệ trong sản xuất kinh doanh theo mô hình hợp tác liên kết giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với hợp tác xã, giữa doanh nghiệp với hộ nông dân trong chuỗi liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ như mô hình của Tập đoàn Cao su Việt Nam, mô hình của Tổng công ty cà phê Việt Nam và một số công ty lâm nghiệp hoạt động có hiệu quả như đã nêu trên, đã đóng góp thiết thực vào nguồn thu cho ngân sách và giải quyết việc làm cho người lao động cần phải được phát huy nhân rộng.

Thứ tư, trên cơ sở đó, phải điều chỉnh lại cơ chế chính sách cho phù hợp. Nghị định 01 của Chính phủ hướng dẫn khoán sử dụng đất lâu dài nhưng không nêu rõ quyền, lợi ích của người nhận khoán. Phải thực hiện phân chia theo mức độ đầu tư, kể cả phân phối lợi nhuận, nếu không sẽ sinh ra khoán trắng, phát canh thu tô hoặc cổ phần hóa nhưng chưa tính đến giá trị quyền sử dụng đất. Hiện nay 11/32 đơn vị sau khi cổ phần hóa đã không thực hiện rà soát, quy hoạch sử dụng đất và làm thủ tục chuyển sang giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất theo quy định của Luật Đất đai. Trong khi tài sản lớn nhất là đất nhưng Thông tư 207/2014 của Chính phủ quy định cứng mức tỷ lệ tính đơn giá thuê đất hằng năm 0,5% của giá đất hiện hành, theo tôi là không hợp lý. Tôi cho rằng không thể nhìn nhận nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý sử dụng đất nông, lâm trường hiện nay chỉ do thiếu trách nhiệm hay năng lực của bộ máy quản lý đơn vị mà còn do cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, không khả thi trong tổ chức thực hiện pháp luật về đất đai.

Thứ năm, phải phân định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước giữa bộ, ngành Trung ương và địa phương trên cơ sở Chính phủ kịp thời thể chế hóa Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Đặc biệt nêu cao vai trò quản lý nhà nước của bộ, ngành Trung ương trong thanh tra, kiểm tra tổ chức thực hiện ở địa phương, đơn vị doanh nghiệp. Ngoài 41 tỉnh đã được tiến hành thanh tra năm 2012 (và đều có sai phạm) các bộ, ngành Trung ương suốt 10 năm qua chỉ thanh tra, kiểm tra có 8 cuộc nhưng kết quả thu hồi thiệt hại không rõ và xử lý không nghiêm. Mặt khác, không thể đùn đẩy trách nhiệm cho địa phương như nội dung trả lời chất vấn trước đây. Cá nhân tôi từng chất vấn Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường tại Kỳ họp thứ 7 tháng 6.2014 về giải pháp quản lý sử dụng có hiệu quả, tránh lãng phí đất đai tại nông, lâm trường, Bộ khi đó cho rằng đây là trách nhiệm của địa phương, tôi cho rằng chưa thỏa đáng. Tại giám sát chuyên đề lần này, tôi đề nghị Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; Bộ Tài nguyên và Môi trường giải trình làm rõ trách nhiệm về tình trạng thất thoát rừng, quản lý lỏng lẻo đất rừng như Báo cáo giám sát đã nêu để bổ sung vào Nghị quyết sau giám sát của QH.

Hiện nay chúng ta đang áp dụng quy trình ngược. Hai thông tư của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường chưa hướng dẫn làm hồ sơ địa chính đất đai, mốc giới cụ thể nhưng đã buộc các công ty nông, lâm nghiệp và các tập đoàn, tổng công ty phải trình phương án sắp xếp sản xuất để thẩm định. Việc chúng ta chưa làm hồ sơ địa chính mà đã tiến hành thẩm định 34 đơn vị là quy trình ngược, cần phải xem xét, tính toán lại. Sắp xếp phải trên cơ sở hồ sơ địa chính đất đai, phải trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng, của địa phương.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Quản trị đất đai không thể “tù mù”
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO