Quản lý nợ công an toàn, bền vững, hiệu quả
Luật Quản lý nợ công số 20/2017/QH14 được ban hành, thay thế Luật Quản lý nợ công năm 2009, nhằm thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về quản lý nợ công an toàn, bền vững, hiệu quả, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới. Kế thừa những ưu điểm, mặt tích cực của quy định tại Luật Quản lý nợ công 2009 đã được áp dụng ổn định, đồng thời, khắc phục các tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra, bảo đảm tuân thủ Hiến pháp và tính thống nhất, đồng bộ với các luật có liên quan.
Hạn chế quy định thẩm quyền của cá nhân
Luật Quản lý nợ công năm 2017 gồm 10 chương, 63 điều, quy định về hoạt động quản lý nợ công bao gồm huy động, sử dụng vốn vay, trả nợ và các nghiệp vụ quản lý nợ công.
Luật đã quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của QH, UBTVQH, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; các bộ, cơ quan ngang bộ, HĐND cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh, Kiểm toán Nhà nước, các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý nợ công, tiếp nhận, sử dụng vốn vay hoặc được bảo lãnh vay vốn. Việc phân định quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan trong quản lý nợ công theo nguyên tắc: Nhà nước thống nhất quản lý về nợ công; giao một cơ quan là Bộ Tài chính chịu trách nhiệm chính trong quản lý nợ công thống nhất. Tăng cường thẩm quyền của QH, Chính phủ, đặc biệt tăng thẩm quyền của tập thể, hạn chế quy định thẩm quyền của cá nhân; gắn trách nhiệm của tập thể, cá nhân với trách nhiệm quản lý huy động, sử dụng vốn vay và trả nợ công.
Từ Điều 21 đến Điều 24, Chương III, Luật quy định về nội dung, trình tự lập, quyết định và trách nhiệm của các cơ quan liên quan đối với chỉ tiêu an toàn nợ công; kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm; chương trình quản lý nợ công 3 năm; kế hoạch vay, trả nợ công hàng năm; hạn mức bảo lãnh Chính phủ giai đoạn 5 năm; hạn mức bảo lãnh Chính phủ và hạn mức cho vay lại hàng năm. Các công cụ quản lý nợ công được luật hóa từ các quy định tại Nghị định số 79/2010/NĐ - CP ngày 10.4.2014 của Chính phủ về nghiệp vụ quản lý nợ công đồng thời tiếp cận được với thông lệ tốt của quốc tế.
Tổng kết 6 năm thi hành Luật Quản lý nợ công năm 2009 cho thấy, việc xây dựng, triển khai các công cụ quản lý nợ công đã có tác động tích cực và khẳng định sự cần thiết đối với quản lý nợ chủ động. Quy định tại Chương III, Luật Quản lý nợ công 2017 bảo đảm phù hợp với yêu cầu lập, thực hiện kế hoạch tài chính ngân sách nhà nước, đầu tư công theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước 2015 và Luật Đầu tư công 2014; gắn kết giữa các kế hoạch này với kế hoạch vay, trả nợ về nội dung, kỳ kế hoạch và trách nhiệm xây dựng, thẩm quyền phê duyệt.
Xác định rõ trách nhiệm
So với Luật Quản lý nợ công 2009, việc cho vay lại vốn vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ được quy định chặt chẽ hơn về đối tượng, điều kiện, thẩm định cho vay lại. Bổ sung quy định về phương thức cho vay lại, dự phòng rủi ro cho vay lại và việc quản lý rủi ro cho vay lại.
Việc cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ được Luật Quản lý nợ công 2017 quy định theo hướng siết chặt điều kiện được bảo lãnh Chính phủ đối với từng nhóm đối tượng, bổ sung quy định về quản lý rủi ro bảo lãnh Chính phủ. Việc quản lý nợ chính quyền địa phương cũng được quy định chặt chẽ, xác định rõ trách nhiệm, điều kiện vay và trả nợ của chính quyền địa phương, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các luật có liên quan.
Chương VIII, Luật quy định về bảo đảm khả năng trả nợ công, quản lý rủi ro đối với nợ công và Quỹ tích lũy trả nợ. Để bảo đảm an toàn, bền vững nợ công, việc huy động vốn vay phải bảo đảm các chỉ tiêu an toàn nợ công và chủ động bố trí nguồn trả nợ đầy đủ, đúng hạn; các khoản vay mới chỉ được thực hiện sau khi đã đánh giá đầy đủ tác động đến quy mô nợ công, trong thời hạn các chỉ tiêu an toàn nợ công và khả năng trả nợ trong trung hạn.
Bên cạnh các quy định về quản lý rủi ro cho vay lại và bảo lãnh Chính phủ tại Chương V, Chương VI, Điều 55 quy định cụ thể quản lý và xử lý rủi ro đối với nợ công, từ việc nhận diện rủi ro, phân loại rủi ro, các biện pháp phòng ngừa, biện pháp xử lý khi xảy ra sự kiện ảnh hưởng đến nợ công. Quy định về Quỹ tích lũy trả nợ nêu rõ các yêu cầu quản lý, nguồn thu và sử dụng quỹ, việc quản lý nguồn vốn nhàn rỗi và bảo đảm nguồn ngoại tệ của quỹ, cơ chế xử lý khi Quỹ tích lũy trả nợ không đủ nguồn.
Việc thống kê, báo cáo và công bố thông tin nợ công được quy định chặt chẽ hơn, xác định yêu cầu về thống kê nợ công, xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu về nợ công, làm rõ thông tin báo cáo, thời gian báo cáo và trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong việc cung cấp và công bố thông tin nợ công.
Đáng lưu ý, trong trường hợp có quy định khác nhau về cùng một vấn đề giữa Luật và Luật Đầu tư công 2014, Luật Ngân sách nhà nước 2015, thì áp dụng theo quy định của Luật Quản lý nợ công năm 2017. Với các thỏa thuận vay đã ký kết, công cụ nợ đã phát hành hoặc được cấp bảo lãnh Chính phủ trước ngày Luật Quản lý nợ công có hiệu lực thi hành (1.7.2018), thì được thực hiện theo quy định của Luật Quản lý nợ công 2009.