Phường Đúc ngày ấy, bây giờ...

Nhụy Nguyên 26/04/2010 00:00

Nghề đúc đồng Việt Nam có truyền thống từ hàng nghìn năm trước, điểm khởi đầu là nền văn minh Đông Sơn rực rỡ. Sau đó phát triển mạnh ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, rồi lan xuống miền nam theo bước chân của cư dân Lạc Việt. Riêng Thừa Thiên Huế, Phường Đúc ra đời khi những người dân đầu tiên theo tiên chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa.

05-Phuong-duc-11610-300A1.jpg

Cuốn Nam sử của C. Maybon đã chép: khoảng năm 1614, dưới thời chúa Sãi, một người nước Bồ Đào Nha tên là Jean de la Croix đã đến gần Huế mở lò đúc súng ở Thuận Hóa, đến nay vẫn gọi là Thợ Đúc hay là Phường Đúc, vị trí nằm ở gần Thành Lồi, làng Dương Xuân Hạ. Cuộc chiến Lê - Trịnh và quân đội chúa Nguyễn xảy ra vào năm 1627 đã khiến cho đôi bên ráo riết chuẩn bị cho những thứ vũ khí cần thiết. Năm 1631, chúa Nguyễn lập một làng nghề đúc súng tại Phan Xá, Hoàng Giang - hai xã thuộc huyện Phong Lộc. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Lan, thủ phủ được dời đến làng Kim Long, thì vị trí của phường đúc súng vẫn được ở tại Phường Đúc. Cho tới năm 1658, chúa Hiền Vương lại xây cất thêm một xưởng đúc súng tại đây. Những người thợ đúc đồng dưới thời Nguyễn được tập hợp thành một tổ chức gọi là Chú Tượng Ty.

Sự thăng trầm của lịch sử dân tộc có tác động trực tiếp đến nghề đúc đồng. Tuy nhiên càng về sau này, khi đất nước thái bình, Phường Đúc trở thành một làng nghề phục vụ nhiều cho văn hoá tâm linh, như đúc tượng Phật, tượng anh hùng, các đồ thờ cúng v.v... Ngoài đúc, các sản phẩm nhỏ và vừa còn được ra đời qua bàn tay gò đồng thật độc đáo.

Nghề gò đồng khó truyền

Nghề gò đồng xuất phát từ làng Đại Bái của miền Bắc, là nghề gò đồng nổi tiếng khắp cả nước ở thế kỷ XV. Đây là một nghề gần như đang đi vào bế tắc về “nhân sự”. Ở Phường Đúc hiện nay, theo sự tìm hiểu bước đầu của người viết, chỉ còn hai nghệ nhân chuyên gò đồng: Nguyễn Thành Công và Nguyễn Văn Thùy. Hai bác theo nghề gò này là đời thứ ba, thứ tư. Đây là một nghề thủ công truyền thống, nghề gia truyền song lại rất khó truyền. Sản phẩm làm ra thiên về văn hóa nhiều hơn là hàng hóa, nên ít người muốn học, mà có học cũng khó thành. Ví như con trai của bác Thùy, dẫu rất tâm huyết, nhưng được ông truyền dạy trên ba mươi năm rồi vẫn chưa làm nổi cái chuông nghe hay. Đã tuổi già bóng xế, sản phẩm mà bác Công và bác Thùy làm ra tuy ít song thật đáng kính nể.

Ngày trước có rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Khi vào Nam, theo nhu cầu sinh hoạt nơi đây, nghề đúc đồng nay chỉ còn những sản phẩm chủ yếu như tang, chiêng cồng, phèng la, lư hương. Cái tang (dụng cụ khởi lệnh trong tang lễ), chỉ nhỏ gần bằng chén ăn cơm, nhưng cũng đòi hỏi một quá trình chế tác khắt khe. Trước hết nguyên liệu phải là đồng tốt, tốt nhất là vỏ đạn. Đồng đó phải luộc qua lửa một lần, sau đó để nguội rồi mới dát, gò. Quan trọng hơn, thành tang phải dày đúng 1 ly, vòng ngoài của đáy 1,5 ly và vòng tiếp đến cũng phải đúng 1 ly. Đặc biệt mặt đáy ngoài phải thật căng. Như thế khi đánh mới kêu bởi độ rung rất  lớn. Có được vậy chủ yếu là nhờ vào tay búa nặng nhẹ, đều đặn của người thợ. Gò chuông càng khó hơn, phải dựa trên sự tính toán chi ly, nghĩa là các phần đúng góc êke. Điều này lý giải tại sao chuông đúc tiếng không thanh bằng và đánh thường bị vỡ. Cũng một phần là do đồng nấu chảy bị khê. Ngoài ra, trong quá trình đúc còn có những bí quyết quan trọng như chọn vật liệu, luộc đồng, pha chế thêm thép, bạc khi cần thiết, kỹ thuật làm múi nối, sửa âm...

Nhiều người ngỡ ngàng khi thấy bác Thùy biến nguyên vẹn ống đạn 130 ly của Liên Xô thành cái bình hoa lớn, có nhiều nấc thang to nhỏ tuyệt đẹp. Ngạc nhiên hơn, nhìn Độc lư trúc của bác làm, người ta chỉ tin đấy là sản phẩm đúc... Những sản phẩm đó thường được bán cho dân sành hoặc người nước ngoài. Dẫu đắt, có cái gấp mấy chục lần so với đồ đúc, nhưng khách vẫn mua. Đấy cũng là một lý do khiến cho những cổ vật quý của nước ta ngày càng khan hiếm. Nhiều lắm cổ vật đã “đi Tây”. Hồi năm 2003, tôi đã cùng với nhà dân tộc học Tăng Bá Hoành đi sưu tầm cổ vật cho bảo tàng. Hiếm quá. Giá như người dân biết được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc giữ gìn cổ vật, thì xem như họ đã góp phần bảo tồn văn hóa nước nhà.

05-Phuong-duc-11610-300A2.jpg

Đúc đồng tham gia giữ nước

Ở đây người viết chỉ nêu ra loại sản phẩm độc đáo nhất, gắn chặt với sự hình thành của Phường Đúc, dẫu cho đến nay không còn đúc nữa. Nhưng chính đây là loại sản phẩm đã ghi dấu ấn của Phường Đúc trong lịch sử nước nhà. 

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, có biết bao nhiêu thợ từ khắp mọi miền đất nước đã xung phong tập kết chốn hoang vu để đúc súng đạn, chuyển ra chiến trường, trong đó có những người con của Phường Đúc.

Vị tổ nghề đúc đồng ở Huế là Nguyễn Văn Lương, một trong những ngời thợ đầu tiên theo tiên chúa Nguyễn Hoàng vào đất Thuận Hóa lập nghiệp. Trên đã có nói qua, nghề đúc súng là do chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho thành lập Ty Nộ pháo tượng và hai đội Tả, Hữu phá tượng, tức là các đội thợ đúc súng trong phủ Phúc An (nay là làng Phước Yên, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền). Để giữ đất và mở đất, nhu cầu đúc súng từ đây trở về sau của xứ Đàng Trong rất bức thiết.

Ngành đúc súng được phát triển ở mức cao nhất, trở thành Cục Quân giới. Trong nhiều gương mặt tiêu biểu, phải kể đến Trần Đại Nghĩa (tên thật là Phạm Quang Lễ) - người đã rời bỏ thành Paris và mức lương 22 lượng vàng/ tháng, để theo Bác Hồ trở về phụng sự tổ quốc vào đầu năm 1946. Như một sự noi gương, cũng là tấm lòng thành của người con đất Việt, thanh niên trai tráng Phường Đúc Huế ra đi...

Sau cách mạng tháng 8.1945, Phường Đúc đã có tổ chức công đoàn thợ đúc. Cho đến đầu năm 1947, hầu hết bà con trong họ đã tham gia đúc vỏ mìn, vỏ lựu đạn để đánh Pháp tại nhiều cơ sở trong tỉnh. Trải qua hơn 400 năm hình thành (từ năm 1600), Phường Đúc ngày nay đã rộng lớn hơn xưa. Thợ đúc cũng đông hơn, không những hoạt động trong địa bàn, mà còn tỏa đi các tỉnh phía Bắc, phía Nam. Sản phẩm không là những khẩu súng thô kệch, hay bó hẹp trong các đồ vật sinh hoạt phục vụ cung đình như trước, mà đã có nhiều loại mới, tiêu biểu như đồ mỹ nghệ.

Ông Nguyễn Thái, một thợ nguội phục vụ quân giới lúc 18 tuổi ở Thạch Thang, Thạch Giáng, Quảng Nam từ tháng 3.1945 đến năm 1954. Xưởng gồm 1.500 người, ngoài thợ nguội như bác, thợ đúc, có cả thợ rèn, thợ tiện ở Hiền Lương vào. Công việc chính là đúc lựu đạn, sửa súng. Chuyện thật buồn: hôm anh Do và anh Bán tra thuốc vào busong lựu đạn, bị nổ, cả hai chết. Loạt lựu đạn ra lò trong thời gian sau đó, trên mỗi quả đều khắc tắt hai chữ D-B. Cuộc sống ở xưởng quá khắc nghiệt, suốt năm suốt tháng chỉ độc ăn cơm nấu từ gạo kho, cùng muối ớt, rau, bầu bí. Ăn chung, ngủ chung, gắn bó keo sơn, thế mà vui. Vui nhất là, khi cùng nhân dân tăng gia sản xuất, hay những lần có thư của Bác Hồ, của các ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Xuân Thủy gửi xuống động viên toàn xưởng. Lương tiền thì chẳng ai tính toán, vì mỗi tháng chỉ được vài chục đồng.

Đầu năm 1954, một người con của Phường Đúc khác, ông Nguyễn Lực đã được Cục Quân giới, Bộ Quốc phòng khen thưởng, tặng Huân chương kháng chiến Hạng nhì. Rất tiếc là ông không còn. Song, những hàng chữ ghi trong lý lịch vẫn còn tươi nguyên một cuộc đời: “Sở dĩ tôi làm ngành Hóa chất: “Sau ngày giành chính quyền, chính phủ kêu gọi hàng ngũ thành niên ai có tài, phát huy để góp vào công cuộc cứu nước. Trong xã Mỹ Cựu có anh Trương Văn Ông, Nguyễn Ván, Huỳnh Văn Ký và tôi, đã nghiên cứu được thuốc nổ, thuốc cháy. Chúng tôi quyết định làm một khẩu súng bắn chim, kết quả đã bắn được rất nhiều dơi và cu đất. Thành tích đó nạp lên tỉnh, tỉnh biểu dương và cấp giấy giới thiệu số anh em trên gia nhập vào cơ xưởng Phan Đăng Lưu tại lò ươm tơ của Quảng Nam, tiếp tục nghiên cứu và chế thuốc nổ”.

Tháng 12.1956, ngụy quyền xã Thủy Xuân (tên NĐT) đến bắt ông Lực đưa về lao Thừa Phủ 15 ngày không tra hỏi. Rồi chúng đưa vào nhà lao Tam Kỳ, tra tấn dã man, khép tội ông “phục vụ Việt Minh”, bắt ông khai cán bộ nằm vùng. Nhưng ông cương quyết không khai, cương quyết bảo vệ Đảng, cũng như anh em đảng viên trong gia đình...

Gia đình ông Nguyễn Đình Toại (có cháu là Nguyễn Văn Sính được nhà nước tặng thưởng danh hiệu Bàn Tay Vàng), là một trong ít nhà đã góp công, của phục vụ chính quyền ở Huế. Hồi ấy, sợ Pháp biết, cứ năm giờ chiều, khi trời nhá nhem mới dám nổi lửa, ban ngày làm khuôn. Quyết tâm trong một ngày đêm phải đúc ra 400 vỏ lựu đạn, con cháu muốn đi chơi phải làm xong số sản phẩm được giao. Tháng 3.1947, mặt trận vỡ, tất cả đồ nghề gia đình có được đều phải dìm xuống đáy sông. Năm 1949, cả gia đình tiếp tục lên chiến khu Dương Hòa đúc súng. Vật dụng đúc mang theo chất đầy bốn con đò, gồm đồng, gang, thép. Từ năm 1953 trở đi, Chính phủ ta nhận được sự trợ giúp vũ khí từ Liên Xô, Trung Quốc, gia đình ông cùng những người thợ đúc súng chuyển qua đúc bạc Bác Hồ.

Giặc Pháp đã truy bắt gắt gao những ai dám đúc vũ khí ở Phường Đúc nói riêng. Trường hợp ông Nguyễn Lực kể trên là một ví dụ. Hay như ông Nguyễn Văn Dân, năm 1948, bị Pháp bắt ở tù tại lao Thừa Phủ. Được hỏi sao giặc thả, ông nói: “Trước sau gì nó cũng phải thả thôi, trừ khi nó giết. Có bữa bị đánh đập ghê quá, tôi cay cú quát lại: Chính phủ bảo làm, chúng tôi làm. Các người đi bắt cả dân tộc ấy. Chúng chỉ giam bảy tháng rồi cho về”. Thời mặt trận Thừa Thiên - Huế, nhiều bà con họ Nguyễn, nhất là các vị tham gia trong xưởng quân giới hay các trận tuyến khác, đã hy sinh, như ông Lôi, ông Nguyễn... Những người thợ năm xưa của Phường Đúc thấy bóng dáng của mình trong câu hát: Bộ đội chiến thắng, nông dân đi dân công/ Người công nhân rèn súng đúc nòng/ Lòng chung lòng ta là tiên phong!

*

Toàn Phường Đúc hiện có khoảng 30 lò hoạt động đều đặn, năm nghệ nhân còn khỏe dẫu tuổi đã cao. Theo họ, lớp thợ “mới lớn” sau này rất vững tay nghề kế tiếp sự nghiệp. Sản phẩm chủ yếu hiện nay là chuông tượng, còn đồ mỹ nghệ thì đã giảm do mức tiêu thụ yếu. Chính những chủ lò cũng thừa nhận, khách (Tây là chủ yếu) quý trọng chu trình làm thủ công của mình, còn độ tinh xảo thì không bằng sản phẩm làm từ máy ở những nơi khác, trong nước và nước ngoài.

Phường Đúc so với năm bảy năm về trước không khác nhiều. Vẫn những ngôi nhà rường nhấp nhô giữa vườn cây um tùm, thấp thoáng phủ đệ chưa xa. Một vài nếp phố phô hai bên con đường (từ cầu lòn ga Huế) dẫn xuống nhà máy xi măng Long Thọ. Dọc theo bến sông, những lò đúc đang đỏ lửa.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Phường Đúc ngày ấy, bây giờ...
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO