Phát biểu khai mạc Hội thảo, Tổng Biên tập Tạp chí Năng lượng sạch Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam TS. Mai Duy Thiện chia sẻ: Trong Quyết định số 500/QĐ-TTg, ngày 15.5.2023 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII).
Chúng ta đã xác định rõ một trong những mục định hướng phát triển điện lực quốc gia là khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng hóa thạch trong nước kết hợp với nhập khẩu các nguồn số lượng nhập khẩu, giảm dần tỷ lệ nhiệt điện than, ưu tiên phát triển điện khí trong nước, phát triển các nguồn điện khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) nhập khẩu với quy mô phù hợp. Cơ cấu nguồn định hướng đến năm 2030 nhiệt điện khí trong nước đạt 14.930 megawatt (MW), chiếm 9,9 %, nhiệt điện khí thiên nhiên hóa lỏng và 22.400 megawatt (MW) đạt 14,9 %...
Việc phát triển điện khí thiên nhiên hóa lỏng giúp tăng hiệu quả trong sản xuất điện, giảm sử dụng nhiệt điện than, giảm phát thải, bảo vệ môi trường hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước vì điện khí thiên nhiên hóa lỏng là dạng năng lượng có phát thải thấp, đang có xu hướng sử dụng rộng rãi, đặc biệt là khi Việt Nam đã tham gia vào cam kết quốc tế giảm phát thải gây ô nhiễm, sau Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP 21).
“Tuy nhiên, việc chuyển dịch sang hướng phát triển năng lực xanh sạch, trong đó có phát triển điện khí thiên nhiên hóa lỏng không dễ dàng, không thể thực hiện một sớm, một chiều. Các dự án điện khí thiên nhiên hóa lỏng thường đòi hỏi các nguồn vốn lớn… Trong khi đó, khuôn khổ pháp lý hiện hành cho các dự án khí thiên nhiên hóa lỏng ở Việt Nam chưa được xây dựng hoàn chỉnh, thậm chí Việt Nam hiện chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan, địa điểm thiết kế, xây dựng, vận hành và các cơ sở hạ tầng phục vụ cho khí thiên nhiên hóa lỏng nhập khẩu… Do đó, việc phát triển điện khi khí thiên nhiên hóa lỏng rất cần sự trao đổi, chia sẻ, lắng nghe giữa các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, địa phương, chuyên gia, nhà nghiên cứu để tiếp tục cụ thể hóa các hành động, chính sách và tổ chức thực hiện nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất…”, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam TS. Mai Duy Thiện nhấn mạnh.
Tại Hội thảo, các chuyên gia cho rằng, những năm gần đây, khi những biến đổi khí hậu ảnh hưởng rõ nét tới môi trường sống trên trái đất thì nguồn phát thải ô nhiễm đã được chú ý giảm thiểu, việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch truyền thống (than đá, dầu thô) ngày một hạn chế. Con người đang hướng tới sử dụng những dạng nhiên liệu bền hơn, sạch hơn, ít gây ô nhiễm môi trường sống hơn. Việc đưa vào sử dụng và phát triển khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) tại Việt Nam đã và đang còn nhiều cơ hội cho ngành năng lượng Việt Nam, song thực tế còn nhiều khó khăn, trở ngại để đưa vấn đề này trở thành hiện thực. Chính phủ và các cơ quan chức năng đã nhận thức rõ tầm quan trọng của khí thiên nhiên hóa lỏng trong bối cảnh phát triển năng lượng gắn liền với bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng đưa ra những phân tích, nhận định và đánh giá tổng quan tiến trình phát triển điện khí nói riêng và phát triển năng lượng xanh, sạch và bền vững tại Việt Nam nói chung hiện nay. Đồng thời các chuyên gia cũng nêu rõ những khó khăn, thách thức trong phát triển điện khí thiên nhiên hóa lỏng tại Việt Nam.
Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam Nguyễn Quốc Thập cho rằng, hiện nay, thị trường tiêu thụ điện tăng chậm so với mục tiêu trong các quy hoạch Điện. Vẫn thiếu khung pháp lý để hoàn thành đàm phán và ký kết các thỏa thuận giữa các chủ thể trong chuỗi dự án điện khí thiên nhiên hóa lỏng… Một khó khăn khác nữa là vấn đề ban hành khung giá phát điện cho nhà máy phát điện khí khí thiên nhiên hóa lỏng vẫn còn đang nghiên cứu xem xét…
Phát biểu tại Hội thảo, chuyên gia kinh tế TS. Vũ Đình Ánh cũng nêu rõ những rào cản về cơ chế và giá trong phát triển điện khí thiên nhiên hóa lỏng, đến nay, Việt Nam vẫn chưa có cơ chế hay quy định cụ thể cho việc phát triển điện khí thiên nhiên hóa lỏng.
“Việt Nam cũng như chưa có quy định hay tiêu chuẩn trong việc xây dựng kho cảng và nhập khẩu khí thiên nhiên hóa lỏng. Việc xây dựng nhà máy điện khí thiên nhiên hóa lỏng cũng đòi hỏi phải gần vị trí kho cảng nhập khí thiên nhiên hóa lỏng trong khi kho cảng nhập khí thiên nhiên hóa lỏng thì lại yêu cầu phải xây dựng gần cảng nước sâu để phục vụ cho tàu khí thiên nhiên hóa lỏng trọng tải lớn. Vì vậy, cùng với yêu cầu vị trí xây dựng có thể đấu nối vào lưới truyền tải thì yêu cầu liên quan đến kho cảng khí thiên nhiên hóa lỏng cũng đang là thách thức với các nhà đầu tư hiện nay. Con đường đến chuyển đổi năng lượng không hề dễ dàng do hai rào cản chính Việt Nam phải đối mặt là thiếu cơ sở hạ tầng và năng lực truyền tải cùng vấn đề kinh phí… Thứ hai, là ở Việt Nam vẫn tồn tại rào cản về quy hoạch, Chính phủ cần sớm phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII để triển khai các khâu nguồn - lưới đồng bộ…”, TS. Vũ Đình Ánh nhấn mạnh.