Phác họa chân dung văn học Chăm
INRASARA

19/12/2013 08:52

1. Tôi có bạn thân, sinh viên xuất sắc một trường đại học lớn, niềm hãnh diện của cả plây. Đột ngột anh bỏ về. Chỉ sau hai năm. Chuyện xảy đến xung quanh tự hào dân tộc. Anh luôn kiêu hãnh là người Chăm, về nền văn hóa Chăm với xốc nổi tuổi trẻ. Nhưng rồi anh bị cú sốc đầu đời. Khi một bạn học yêu cầu anh nói về văn nhân Chăm sáng giá nhất, tác phẩm nổi tiếng nhất…

- Mình đổ thừa bừa cho khách quan, thiếu điều kiện gì đó… - anh kể lại. Nhưng khi bạn hỏi tại sao mãi đến lúc này các anh vẫn còn chưa có bộ văn học sử Chăm. Thế là mình ú ớ, và… bỏ về.

Mười lăm năm sau. Câu chuyện khác. Một nhà văn ở Hà Nội ghé Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm tại Phan Rang. Chén tạc chén thù, ông nhận được niềm tự hào tương tự từ vị trung niên. Nhà nghiên cứu tỉnh lẻ này dắt tay vị khách vào tận kho sách với những bản photocopy chất lớp, nhìn tận mắt hàng ngàn thước microfilm, từng dãy danh mục văn bản cổ chép tay. Anh hứa hẹn với người của trung ương rằng còn có cả mấy trăm truyện cổ, mấy chục ngàn tục ngữ, ca dao đang được lưu truyền trong các plây Chăm nữa. Đó là một nền văn học lớn đang mai một. Vì thiếu… kinh phí đầu tư khai thác.

Tháp Chàm ở Ninh Thuận Ảnh: Nguyễn Quang Tuấn
Tháp Chàm ở Ninh Thuận Ảnh: Nguyễn Quang Tuấn
Khi nhà văn hỏi: - Có chương trình cụ thể sưu tầm chúng chưa? Các anh xử lý kho tư liệu này thế nào, thì ông thấy thất vọng chảy tràn mắt người đối thoại. Vị nghiên cứu này không phác nổi chân dung dù mơ hồ nhất về văn học dân tộc.

*

Giai thoại kể người Chăm cất giấu dưới hang núi vùng Cà Ná kho sách lớn từ hai thế kỷ nay. Nền hang được phả dày bằng lớp cát phát sáng, cửa đóng kín mít bởi một tảng đá to mà chỉ có người Raglai - một dòng họ gia nhân của hoàng tộc Champa cuối cùng - mới mở được, bằng bài phù chú bí hiểm với lễ vật. Bao nhiêu kho báu đang phải chịu phủ mờ dưới mốc bụi thời gian?

Nếp nhăn tuổi già khuất lấp dần ký ức mù sương truyền thuyết. Cả sức bay bổng trong cõi dân ca cũng bị trì nặng bởi lo toan thường nhật. Từng tờ bản thảo chép công phu bóc rời khỏi ciet sách gia đình và đi lưu lạc. Chúng lưu lạc nơi đâu?

Nhớ, ngài học giả người Pháp Paul Mus ở đầu thế kỷ phán rằng văn chương Chăm chỉ có thể tóm trong hai mươi trang sách, nghĩa là không có gì đáng nói cả. Tôi đọc được câu đó khi đang ngồi lớp chín ở một trường nghèo trong một tỉnh nghèo. Tôi không tin Paul Mus! Nhưng lấy gì làm chứng cho cái không tin kia? Vì bốc đồng tuổi trẻ, tôi phải đi. Một dân tộc sáng tạo ra bao nhiêu là cụm tháp kỳ vĩ thế kia thì không thể nào không là gì cả trong văn học được.

2. Thế là tôi đi… Dù trong tay không có lấy mảnh văn bản nào.

Trở ngại đầu tiên cho kẻ muốn đi vào ngôi nhà văn học Chăm là ngôn ngữ cổ. Như ngôn ngữ dân tộc nào bất kỳ, tiếng Chăm cũng chịu sự biến động. Vốn từ cũ chết đi hoặc mang nghĩa mới, vốn từ mới được sáng tạo. Nhưng với dân tộc Chăm, bởi hoàn cảnh đặc thù, lượng từ chết nhiều hơn, nhanh hơn.

Akhar thrah chữ Chăm truyền thống là thứ chữ vay mượn từ chữ Ấn Độ, qua nhiều biến thái để tạo thành tiếng Chăm ngày nay. Nhưng bởi cộng đồng Chăm sống rải rác nhiều khu vực nên mỗi nơi chép mỗi khác, mỗi Gru (thầy) chép mỗi khác, gây khó khăn không ít cho giới nghiên cứu! Tôi phải mày mò đọc, hỏi từng Gru, đoán từng trang để tìm ý nghĩa câu Ariya…

Chuyện vui. Tháng giêng năm 1993. Phan Rí. Tôi mượn được chiếc xe đạp, ngược gió đi gặp một thầy Kadhar nổi tiếng. Ông có vẻ không muốn tiếp tôi.

- Các vị chỉ có bòn rút chữ nghĩa ông bà rồi đem bán cho ngoại nhân - Ông nói rồi bỏ ra sau nhà thay quần áo vừa đi rừng về và ở luôn phòng trong. Bà vợ năn nỉ mãi ông mới ra tiếp khách. Nhưng ông không cho chúng tôi tư liệu hay thu băng bài hát mà chỉ đọc cho nghe Ariya: Adat kayuw phun hapak jruh tak nan / O kan jruh pak bikan, drei tacei wơk di drei.

Đạo của cây là gốc ở đâu thì rụng ở đấy
Nếu rụng nơi nào khác là mình tự hại mình.

Ông bảo đấy là bài thơ cổ cố ngoại ông để lại. Một giọng thơ đầy tự hào của anh nhà nông! Tôi nhẹ gật. Dù tôi biết đấy là sáng tác mới, có lẽ của chính ông. Thể ariya lục bát Chăm không gieo vần như lục bát Việt phổ biến, nghĩa là vần chữ cuối câu sáu hiệp với chữ thứ sáu câu tám mà lại hiệp ở chữ thứ tư (lục bát Việt cũng có khi gieo vần theo lối này, nhưng hiếm hơn-BT). Và gieo cả vần bằng lẫn vần trắc. Vài yếu tố trong bài thơ tự khai điều đó.

Ông muốn giấu mặt để bài thơ có mặt. Tuyệt tác văn chương là linh khí trời đất kết tủa. Người Chăm nghĩ thế nên hầu như toàn bộ nền văn chương này khuyết danh. Để tăng tính sấm ký, người Chăm sẵn sàng đẩy Pauh Catwai lùi xa đến 500 năm dù nó chỉ mới được viết vào đầu thế kỷ XIX. Và chẳng lạ khi có vị cả quyết Akayet Inra Patra có trước Truyện Kiều đến sáu thế kỷ!

Trong cuộc đi dài, mọi cánh cửa mở ra với tôi. Nhiều vòng tay đón nhận đứa con Chăm hồn nhiên và nhiệt tình đến với chữ nghĩa cha ông. Người Chăm, thế hệ này sang thế hệ khác, vẫn lưu giữ Ciet sách gia đình. Họ xem chúng như gia bảo không dễ gì đụng đến.

Xưa, sách Chăm được chép trên giấy bản của Tàu hay những miếng lá buông với lỗ để xỏ dây xâu lại thành tập. Sau đó, họ sử dụng giấy xi măng, dù thô nhưng khá bền. Giấy, bút, mực hiếm và khá đắt nên mỗi trang giấy họ đều rất quý. Mới trăm năm trước, phải tốn một xe trâu thóc (800 kg) mới thuê được thợ chép sách để có nguyên tác sử thi Akayet Dewa Mưno dài 472 câu lục bát Chăm.

Sách được cất vào Ciet paung (như rương đan bằng tre lát) và treo trang trọng lên xà ngang ngay giữa nhà. Định kỳ hàng tháng, với lễ vật đơn sơ, người Chăm làm lễ rước Ciet xuống mang hong nắng. Sách lâu ngày không được dùng tới gọi là sách hoang (Akhar bhaw), rất không hay cho chủ nhân của chúng.

Ở tất cả các plây Chăm, các cụ vui lòng đãi cơm cho tôi được ngồi chép. Văn học Chăm chưa qua kỹ thuật in ấn nên tác phẩm không được nhân bản nhiều. Và rồi mất mát.

Một câu tục ngữ - một dòng ca dao
Nửa bài đồng dao - một trang thơ cổ
Tôi tìm và nhặt - như đứa trẻ tìm nhặt viên sỏi nhỏ
(Những viên sỏi người lớn lơ đãng giẫm qua)
Để xây lâu đài cho riêng mình tôi ở
Lâu đài mà một ngày kia họ ghé đụt mưa - chắc thế!
                                            (Inrasara, Tháp nắng)

3. Sau 25 năm lăn lộn với chữ nghĩa, đánh vật với trang sách chép tay ố mờ, tôi đã thu thập được hàng trăm thần thoại, truyện cổ, gần 2.000 tục ngữ, câu đố, hơn 50 bài ca dao, đồng dao… Sáng tác thành văn, tạm kể: 5 sử thi, 7 trường ca trữ tình, 10 tập thơ ký sự, 3 gia huấn ca… Bên cạnh đó, hàng năm, người Chăm có mấy mươi cuộc lễ, mỗi cuộc với hàng chục bài tụng ca đầy chất văn chương, chứa đựng nội dung hết sức phong phú về đời sống tinh thần của dân tộc.

Chăm có Akayet - sử thi, các sử thi đã được văn bản hóa ngay từ thế kỷ XVII. Ba tác phẩm được phổ biến rộng rãi trong quần chúng: Akayet Dewa Mưno, Akayet Inra Patra, Akayet Um Mưrup.

Theo các nhà nghiên cứu, dân tộc Êđê, Bana, Giarai, Raglai… có thể loại gọi là sử thi với tiếng bản ngữ là: Khan, Hơmon, Hơri, Jukar. Thật ra các “thuật ngữ” này có quan hệ mật thiết với Chăm. Khan trong tiếng Chăm là akhan hay khan nghĩa là kể; hơmon tiếng Chăm: mưmaun (đọc là mưmon) có nghĩa nói thầm; jukar tiếng Chăm: dulikal có nghĩa truyện cổ, hơri, tiếng Chăm: hari có nghĩa ngâm đọc. Sở dĩ các dân tộc này vẫn còn giữ chất truyền khẩu bởi vì lúc đó họ chưa có văn tự ghi chép như Chăm. Do đó, họ “thuần” hơn, mang tính kể nhiều hơn đọc (pwơc) ngâm (hari). Cả người Chăm ở Bình Định, Phú Yên cũng mang đậm chất dân gian trong sử thi.

*

Trở lại với hai nhân vật ở đầu câu chuyện, yếu tố khách quan luôn là cái giỏ to sẵn tay cho ta đổ thừa. Rồi thiếu kinh phí, điều kiện khó khăn… nữa.

Người Chăm là dân tộc ham chơi, làm chơi, làm để chơi. Ham chơi thì tài năng văn học nghệ thuật dễ nẩy mầm. Hiện tượng Mưdwơn Jiav - nghệ sĩ Pwơc jal, Mưdwơn Tìm - nghệ nhân chơi trống Ginang kỳ tài hay Jaya Mưyut Chăm - thi sĩ một bài thơ Suon bhum Cam không phải là hiếm. Nhưng chỉ có thế. Đất, nắng, gió Phan Rang không ưu ái họ. Chính họ cũng không biết tự nuôi sống. Cây nghệ thuật bắt đầu bằng những nụ hoa ham chơi kinh qua bao cuộc tinh luyện nhựa ham làm mới kết trái chín muồi ở cuối vụ thu hoạch.

Văn chương là cách sống ở đời, là tỏ thái độ và hối thúc chúng ta tỏ thái độ. Ta học cách đi vào lòng nó với tất cả nhiệt tâm thì nó mới tự mở phơi như một hiện thể chói lòa, bát ngát. Nó không là đối tượng cho trí thức háo lạ đến với nó bằng con mắt xoi mói vị lợi.

Văn chương Chăm bàng bạc trong tâm hồn quần chúng lao động Chăm. Nói như Chế Lan Viên, nhân loại còn đi xa nên nhân loại muốn có “thơ cầm tay”. Hôm nay tôi muốn biếu bạn đọc vài tập cầm tay rút từ bạt ngàn chữ nghĩa của nền văn chương dân tộc mình. Đó là Ariya Bini - Cam, Ariya Glang Anak, Pauh Catwai và Ariya Nau Ikak.

 Ba ngọn tháp văn học Chăm

Mỗi tác phẩm nghệ thuật lớn thật sự hầu như chỉ xảy đến một lần, duy nhất, như là tạo hóa đúc ra cái khuôn cho riêng nó để sau đó đập vỡ khuôn đi. Nên tất cả thứ phẩm bắt chước đều lố bịch, ngớ ngẩn. Một Ariya Bini - Cam, Glơng Anak, Pauh Catwai hay Ariya Nau Ikak không bao giờ kéo lê dấu vết của các sáng tác có trước nó. Nó là độc sáng, độc nhất và vô nhị.

Ariya Bini - Cam dài 162 câu ariya - lục bát Chăm biến thể. Cuộc tình một chiều của hoàng thân Cam Ahier với cô gái Hồi giáo đến từ Mecca, đi qua nhiều vùng đất quê hương với những cuộc chiến, những chia ly, mất mát. Thời gian và không gian đan xen, đồng hiện. Nhân vật thoắt vui thoắt buồn, chợt say chợt tỉnh. Ngôn ngữ hàm súc mà bay bổng, tinh tế mà vẫn cuồn cuộn tràn bờ. Kỹ thuật kể chuyện gần với các sáng tác thuộc dòng ý thức (stream of consciousness) rất hiện đại. Một hiện tượng độc nhất vô nhị trong văn chương cổ điển Chăm.

Ariya Glang Anak dài 116 câu ariya - lục bát cổ điển Chăm, sáng tác vào khoảng cuối thế kỷ XVIII. Đây là thi phẩm triết luận - thế sự đầu tiên trong văn chương Chăm phô diễn bằng thứ ngôn ngữ vừa giàu chất tượng trưng trong ẩn dụ vừa mang tính minh triết cao, xây dựng trên nền xã hội Chăm đầy biến cố. Thi phẩm khá khó hiểu nhưng đã lôi kéo được bao thế hệ trí thức Chăm đến với nó.

Pauh Catwai với 136 câu ariya - lục bát hiện đại mà mỗi câu như một châm ngôn, một sấm ngữ ngắn, sắc và sâu, mang chứa nhiều tầng ý nghĩa nhân sinh và thời sự xã hội Chăm đầu thế kỷ XIX rã tan nhiều xáo trộn, đảo điên.

Ba tác phẩm như là ba ngọn tháp đứng biệt lập trong văn chương Chăm. Một ít phân tích sách vở hầu rút ra và kết luận mang tính nguyên lý về các yếu tố tạo nên kiệt tác văn chương Chăm ở quá khứ:

- Nội dung luôn gắn với định mệnh dân tộc, tâm thức dân tộc dù nó là tình yêu lứa đôi, triết lý hay thế sự nóng bỏng tính thời sự trong phạm vi một dân tộc nhưng đã được nâng lên tầm nhân loại, giai độ thế giới.

- Hình thức (thể thơ, ngôn ngữ, phong cách…) đầy sáng tạo, mới mẻ gần như đột biến, chưa từng có trước đó. Dù Ariya Glơng Anak mượn ariya - lục bát cổ điển nhưng nhịp thơ đi mạnh khỏe, dứt khoát không lê thê như các akayet - sử thi cũ.

- Dù là sáng tác văn chương nhưng chúng cho ta các hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực xã hội. Đọc tác phẩm, chúng ta luôn có cảm giác các tác giả phải là những đại trí thức hàng đầu của Chăm lúc đó.

Đó là ba tác phẩm xuất sắc tiêu biểu. Tiếc rằng chúng không là sáng tác dài hơi. Nhưng biết đâu trong cùng thời điểm ấy, đã xuất hiện các tác phẩm khác lớn hơn của cùng tác giả đã bị thất lạc!

    Nổi bật
        Mới nhất
        Phác họa chân dung văn học Chăm<br><i>INRASARA</i>
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO