Nước nhảy lên bờ (Phần 1)
Truyện ngắn của Nguyễn Đặng Mừng

08/11/2010 00:00

>> Nước nhảy lên bờ (Phần cuối)

Trận mưa gọi là tiểu mãn hồi tháng ba ngập hết cả ruộng khoai sau . Khoai mới hai tháng moi về bốc mùi thối như phân người, heo cũng chê. Bà con lại mất công gánh đi đổ, phải đổ cho xa nơi ở để khỏi phải ngửi cái mùi kinh khủng đó. Từ đầu đến cuối làng nồng nặc mùi khoai thối. Đi họp phân chi hội thằng Thỉ bô bô “đứa mô ăn khoai túi ni xin mời ra ngoài cươi (sân) mà ngồi, ngồi trong nhà lỡ… ra không ai chịu nổi”. Thỉ gọi tôi bằng chú trong phái. Thanh niên chúng tôi tối nào cũng họp ở nhà Nhan, cô ấy làm phân chi hội trưởng, nhà Nhan chỉ có hai mẹ con nên được thoải mái. Có việc thì họp không có chi cũng nói tầm phào cho vui. Tối lại không biết làm chi, ngồi nhà suy nghĩ nhiều thêm đói bụng.

Vụ đông xuân lại mất mùa. Được bao nhiêu phải bán nghĩa vụ. Mỗi xã viên chia được vài chục ký lúa. Bà con lên sân đội gánh về nhiều nhất là …rơm.

Gió Lào thổi ù ù qua cánh đồng khô khốc, rát đến ruột gan. Bà con từng đội uể oải vác cuốc ra đồng cuốc đất thải. Mùa hè thu chỉ sản xuất trên một phần ba cánh đồng vào những nơi thấp, hoặc có nước tưới.

 Ruộng phần trăm(1) được hợp tác xã chia cho từng hộ để tính vào việc chăn nuôi. Những khoảnh ruộng được cắm vè, mỗi hộ chừng vài trăm mét vuông. Bà con đầu tư nhiều phân tro cho đám ruộng cá thể của mình, thường năng suất gấp nhiều lần so với ruộng hợp tác. Mùa hè thu trước đây gọi là mùa trái, như đánh bạc, năm được năm mất.

Lúa mùa trái năm nay xanh tốt, nhất là ruộng phần trăm. Qua rằm tháng bảy có đám bắt đầu chín, gọi là lúa đỏ đuôi. Người ta dự đoán là năm nay mỗi xã viên cũng được mươi thùng lúa. Hy vọng nhen nhúm trong lòng bà con.

Trời báo hiệu mưa bằng những ngọn gió bấc lành lạnh, ráng mây đỏ rực phía đằng đông, từng đụn mây đen kéo về nghịt trời. Sấm chớp phía biển ầm ào dội vào. Những lão nông lo lắng, chú Gàn buồn rầu nhìn trời than: “Tháng bảy nước nhảy lên bờ, coi chừng rồi đói ngất ngư cả làng”. Đến chiều dãy núi phía Trường Sơn chìm trong mây, báo hiệu mưa nguồn. Đến nửa đêm, cơn mưa dội xuống mái tôn lạt rạt, lào rào. Mưa kéo dài đến sáng. Những chân ruộng thấp nước ngập đến nửa thân lúa.

Nước lên tới đâu bà con tranh thủ gặt ruộng phần trăm tới đó. Tôi mượn chiếc ghe chú Gàn cùng Nhan xuống gặt ruộng Mơn, ruộng phần trăm của tôi và Nhan sát nhau. Nhan kêu tôi bằng chú chớ không bà con chi. Quê tôi con gái nhỏ hơn con trai năm ba tuổi là gọi bằng chú, cho ra vẻ… con gái nết na. Tôi chống sào sau, Nhan cầm chầm bơi trước. Buổi sáng nước chỉ ngang bắp chân. Hai chú cháu gặt đến trưa nước lên ngang bụng, không còn thấy lúa đâu mà gặt, lúa cũng gần đầy ghe. Mưa đổ rát mặt. Nhan trước tôi sau đẩy ghe lúa về.

Gió mưa thổi ngược, hai đứa đẩy hết sức mà không nhích lên nổi. Thỉ lội băng băng trong mưa kêu lớn: “Giữ đừng cho ghe lặn”. Tôi và Nhan cứ bặm môi ghì chặt hai mạn ghe. Thỉ đến bên nói lớn: “Có cái thau đây nì, để tui giữ ghe cho, o Nhan tát nước ra đi”. Nhan tát một chặp mỏi tay lại đổi cho Thỉ, hắn tát thiệt nhanh, một chút đã hết nước. Ghe nổi lên, đẩy nhẹ hơn nhiều. Nhan có vẻ mệt, mặt tái xanh. Thỉ nhìn Nhan cười cười: “Thôi o ngồi luôn lên ghe cho khỏe, níu vô ghe thêm nặng”. Đoạn hắn nhanh tay xốc nách Nhan bỏ lên ghe, đưa cái thau bảo “việc o chừ là tát nước”. Mưa ngớt, nước không còn nhiều, Nhan ngồi tát từng vệt nước nhỏ như chơi đồ hàng. Mỗi lần Nhan hắt nước là Thỉ đếm “năm, mười, mười lăm, hai mươi…” rồi cười khềnh khệch “Tướng o mà cũng bày đặt đi cắt lúa nước lụt, ở nhà chơi đồ hàng với chú Bình cho rồi”. Thỉ nhìn tôi cười châm chọc.

Cặp ghe ở cống nước gần nhà, tôi và Thỉ vác lúa về chất trước sân. Thỉ vuốt vuốt đầu tóc ướt nhẻm, nhìn tôi rồi nhìn Nhan cười cười “Kiểu ni lấy chắc rồi mần chi mà ăn”.

Mưa một đêm tầm tã. Khuya nghe tiếng heo kêu, mạ con tôi thức dậy, nước đã vào nhà. Lội trong nước bạc lạnh ngắt, bụng đói chân run. Tôi lôi heo lên bàn giữa, nơi an toàn nhất, nó kêu ré lên rồi nhảy ùm xuống nước. Đèn lại tắt. Mò mẫm theo tiếng kêu, tôi chụp được chân nó, dùng hết sức lực kéo được lên bàn. Không biết nó sợ nước hay mệt mà nằm im. Thiệt tình tôi muốn nó chết để mai được ăn tô cháo lòng cho đã.

Nước lên nhanh. Trời chưa sáng đã nghe tiếng í ới của bà con bên xóm Phường xóm Rào chèo chống ghe lên rú chạy lụt. Nhà tôi ở xóm chợ, nền cao nhất xóm mà nước đã vô nhà. Theo tính toán của mạ tôi, giờ này bà con dưới xóm Phường, bên làng Thi Ông, Lam Thủy nước đã chắp mái.

Trời sáng ra. Nước bạc dập dềnh, ì oạp. Nhà cửa tre pheo như thấp xuống. Những chiếc bè chuối chở theo heo gà kêu inh ỏi lẫn trong tiếng người gọi nhau ơi ới. Những khuôn mặt chịu thương chịu khó của các mạ các chị dưới vành nón lá như tóp lại, quắt queo. Rắn nước lội loằng ngoằng trước sân, vào cả trong nhà. Tôi đánh chết một con quăng ra ngoài vườn. Rắn mai rắn hổ leo lên tre vằn vện, mấy o mấy chị sợ xanh mặt. Quê tôi không ai ăn thịt rắn. Những ngày đói kém, rắn nước đầy đồng, người ta đánh chết, sình lên hôi thối mà không ai màng đến. Có lần tôi nói trong Nam rắn này gọi là rắn bông súng, ăn ngon lắm. Chú Gàn rụt cổ kinh hãi “Ăn uống kiểu chi như mọi, chết thì thôi, ai lại ăn uống dữ rứa”.

 Nhan vác con heo lứa chừng mười ký, chị Nị (mạ Nhan) ôm bao áo quần lội nước theo sau qua nhà tôi. Nhan mặc chiếc áo bộ đội rách một miếng trước ngực, lộ một phần bầu vú bên trái. Áo ướt ngang ngực, mặt Nhan tái ngắt “Mệ ơi nhà cháu lút ngang cửa sổ rồi, cho cháu gởi con heo, gia tài nhà cháu chỉ còn chừng ni… hức… hức, cháu chui vô bụi tre mới lôi nó ra được đây”. Nhan từng khoe với tôi vài tháng nữa heo đủ bốn chục ký sẽ đem bán cửa hàng, được bán thưởng hai quần chéo đen. Tôi đón con heo run lẩy bẩy để lên bàn giữa, nơi mà mỗi lần qua nhà Nhan chưa bao giờ dám ngồi vào. Con gái đàn bà quê tôi không ai dám ngồi bàn giữa, trước bàn thờ. Heo nhà tôi đã chết rồi. Con heo nhỏ rúc đầu vào bụng con heo lớn. Mạ tôi đưa tay áo quyệt nước mắt. Tôi thương mạ quá, quên luôn tô cháo lòng.

Chú Gàn và tôi mổ heo chia thành mười sáu xâu, mỗi xâu trị giá nửa thùng lúa, bán chịu cho bà con qua mùa năm sau mới lấy. Nhà nào còn lúa đâu mà đong liền. Bà con giành nhau lấy thịt, nhà tôi để lại hai xâu, chia cho Nhan nửa xâu. Chú Gàn lấy một xâu, cười hề hề “Sang năm đến mùa lên côi rú mà lấy, tau chọn huyệt rồi”. Tôi lạnh người. Chú Gàn thường nói trước những điều xảy ra. Như mấy năm trước thấy thanh niên phá bờ thửa để công nghiệp hóa nông nghiệp, chú Gàn bảo “mần ăn kiểu ni có ngày chết đói”. Chú dạy tôi gài xe đạp nước, hai chú cháu vào nước phở(2), đạp cả buổi, nước chỉ dồn về một góc ruộng. Mùa trái đó mấy đám ruộng vừa cải tạo thí điểm bỏ hoang.

Nhớ hồi mới giải phóng, những cán bộ đi tập kết về mở tiệc mời bà con. Mấy chú ngoài Bắc về làng thuộc thế hệ đàn em của chú Gàn thời chống Pháp, có người khi đi mới mười lăm tuổi, ra Bắc còn đi học tiếp. Nghe đâu có anh Hạ tốt nghiệp tiến sĩ ở Liên Xô. Những chuyện kể về chiến tranh sinh động lắm. Bà con chăm chú nghe, đột nhiên chú Gàn nói lớn: “Ăn đi cho tui ăn với một miếng, nói chi nói mãi, không thì tui về đây”. Mấy chú kéo lại xin lỗi chú Gàn. Ăn xong ngồi uống nước, lại chuyển qua đề tài kinh tế. Mấy chú kể ngoài Bắc nhiều mỏ lắm, nào mỏ thiếc, mỏ chì, có cả mỏ uranium để sản xuất bom nguyên tử. Chú Gàn bực mình nói trỏng: “Còn một mỏ nữa”, bà con hỏi mỏ chi, chú tỉnh quoeo: “Mỏ nói láo”.

Tôi trải tấm tôn lên bộ phản, lấy một ít tro phủ lên, bắc kiềng làm bếp. Nhan đi rút rơm vào, nhen lửa nấu cháo lòng. Nhan đã lấy dây rơm cột lại chỗ bị rách trước ngực, cười cười “Chú cháu mình mà xấu hổ chi, chú hỉ”. Lòng heo nhiều mà chỉ có nửa lon gạo nên cháo lõng bõng. Mạ tôi húp một chén, thở ra, kêu nhức đầu không ăn nữa. Chị Nị cũng ăn một chén, còn bao nhiêu Nhan và tôi ăn sạch, còn thòm thèm. Chén cuối cùng Nhan đổ vào nửa muỗng ớt bột, bảo để cay cho ấm bụng. Mặt Nhan tươi lên sắc hồng, lấm tấm mồ hôi. Cháo lòng hiệu quả thiệt. Quê tôi ai cũng ăn cay, chắc để đánh lừa vị giác vì thức ăn chẳng có gì, có cơm là quý rồi, ăn với muối và ớt thiệt cay là ngon nhất! Nhan đổ thêm một ít nước tráng nồi cháo đem đến cho con heo lứa, nó táp lặp phặp. Số thịt còn lại mạ tôi muối để ăn dần, thường là để kho với nước ruốc cho có vị béo.

Số lúa gặt chung hôm kia nổi lều bều trước sân. Nhan nghĩ ra cách rang lúa như làm cốm. Tôi đạp lúa bằng chân một đầu tấm phản, đầu kia Nhan rang. Lúa chưa chín dai nhách, đạp ê cả chân cũng chỉ được vài lon. Nhan bảo lấy đũa suốt nhanh hơn. Được một ít lại bỏ vào cối giã, sàng sảy xong được vài chục lon gạo teo tóp, màu xanh như cốm. Cơm chiều hai nhà lại ăn chung. Gạo non được đổ vài lon nấu cháo, Nhan cắt thêm bó rau muống đổ vào, bảo “để chắc bụng”, nồi cháo nửa xanh nửa trắng như cháo heo. Bốn người hì hục húp. Chắc bụng nên ngủ ngon. Chị Nị, Nhan và mạ tôi ngủ chung giường.

Tôi nằm một đầu tấm phản, cuộn mền nghe ếch nhái kêu, chìm nhanh vào giấc ngủ. Chiêm bao thấy tôi và Nhan được ăn cỗ, xôi thịt ê hề. Rồi lại thấy cùng Nhan ngồi ăn chè đậu huyết bên một đống lúa to đùng. Rồi lại thấy Nhan mặc cái quần Mỹ Á láng tưng, cái áo hoa sặc sỡ. Mông và ngực Nhan đầy đặn như mùa hè thu năm bảy lăm đi làm cỏ lúa, sợ đỉa đến ngất đi, nằm ngửa trên bờ ruộng, mấy chị vén áo xức dầu. Khoảng bụng trắng nõn, hé một chút nịt ngực, mấy đêm sau tôi còn mơ thấy… rồi mộng tinh. Đêm này cũng mộng tinh, điều mà mấy năm này không có. Cháo gạo mới bổ thiệt!?

Một nửa xã viên đội chúng tôi là dân thành thị, họ đi lính chế độ cũ hoặc là viên chức, thầy giáo, y tá… Những năm chiến tranh lan rộng, họ đem vợ con vào sinh sống ở các tỉnh lỵ miền Trung. Gia đình Nhan cũng dân thành thị từ năm 1960, ba Nhan đi quân dịch đem vợ con theo ở đâu trong Huế. Mùa hè năm bảy lăm kéo nhau về làng, ai cũng còn chút của nả, ít nhất cũng vài lượng vàng, có nhà còn cả mấy chục lượng. Thời mới về làng vui lắm, đi làm ruộng thanh niên còn hút thuốc Ruby, khói bay là là trên đọt lúa, thơm phức. Những năm thiếu thốn, nhà nào cũng phải bán dần của cải để mua thêm khoai sắn, một chỉ vàng có khi mua chưa được vài thúng sắn khô. Đến năm bảy chín thì nhà nào cũng vô sản như nhau.

Nước lên chậm, chưa có dấu hiệu rút, mấp mem tới rú. Bao nhiêu chuột đồng, chồn cáo tập trung về những bụi cây dại trên rú. Sáng sớm chú Gàn cõng con chó Bi ngang nhà tôi, kêu “Bình ơi đi săn”, “Đi săn mô?”, “Sau rú”. Tôi cõng con Mực theo. Ngang nhà thằng Thỉ rủ hắn dắt con Vàng cùng nhập hội đi săn. Chúng tôi đi theo đường đập, hướng về phía rú.

Đập là hai con đê song song của hai làng, giữa là lạch nước chảy trên lòng cát trắng, gọi là khe, chỗ rộng nhất chừng vài trăm mét. Mùa mưa nước từ những bãi cát rộng lớn, giáp ra tới các làng biển, tập trung chảy về khe rồi đổ ra sông Vĩnh Định. Nước khe chảy ngược về hướng Trường Sơn. Nghe nói thời vua chúa, những làng có nước chảy ngược như thế thường hay làm phản, nên chính quyền phong kiến buộc trước đình làng phải đúc hai con nghê xây đầu về hướng núi. Những làng quê hiền như đất như khoai, có ai làm phản gì đâu.

__________________

1. Ruộng phần trăm: thời làm hợp tác xã nông nghiệp, có quy định để dành năm phần trăm diện tích ruộng, chia cho từng hộ, gọi là hỗ trợ thực phẩm chăn nuôi. Xã viên nhận ruộng này có nghĩa vụ bán gia súc lại cho nhà nước theo giá thu mua.
2. Nước vào ruộng đã được phơi ải. Đất đang khô nóng, cho nước vào, đất nhũn rất dễ bừa.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Nước nhảy lên bờ (Phần 1)<Br><I>Truyện ngắn của </I>Nguyễn Đặng Mừng
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO