NÚI VỠ (Phần 1)
Truyện ngắn của Tống Ngọc Hân
Cay tái mặt, đứng trên hai chân thôi không vững, hai tay phải bíu vào một gốc cây vừa tươi vừa chắc. Cái túi nước to quá. Lại đầy căng, xanh leo lẻo, treo ngay gần mặt trời Séo Tỷ mà người ta gọi là hồ ấy, nói vụng nó mà thủng một lỗ hay rạn ra một vết thì nước đổ xuống, san phẳng cả vùng thung lũng miên man trù phú này. Chết hết cả thôi. Sợ quá.
Đi thôi, không gan được đâu, không chùng chình được đâu. Vợ con Cay lốc nhốc thồ lớn thồ bé theo chân Cay vào lúc trời đã sâm sẩm.
Trước, cán bộ nói thế nào cũng không nghe. Trưởng bản dọa chết. Không sợ chết. Trưởng bản dọa cho đi tù. Không sợ tù. Trưởng bản dọa cho mù chữ. Cho mù. Chữ để làm gì. Cả bản đã đi rồi. Kệ cả bản. Trường học và các cô giáo cũng đi rồi. Kệ trường, kệ cô giáo. Trạm xá và thuốc cũng đi rồi. Kệ trạm xá, kệ thuốc.
Cay quyết liệt bám trụ. Nương của tao, ruộng của tao, đất của ông cha, tổ tiên tao để lại, cớ gì đuổi vợ con tao đi. Cay cãi đâu ra đấy. Thế mà bố Cay bảo, lời mày nói không vào tai.
Anh Chinh là người đi nhiều, học nhiều. Anh về lúc sáng, không phải để vận động Cay đưa gia đình đến khu tái định cư mới, mà rủ Cay đi thăm một nơi. Cay bán tín bán nghi. Nghi anh Chinh lại bày trò trêu Cay như hồi còn bé thôi.
![]() Minh họa của Đặng Hồng Quân |
Cái chỗ mới ấy Cay không thích. Tất cả người Mông San Hồ đều không ai thích. Lạ chưa, làm thủy điện ở Seo Tỷ, dân Seo Tỷ không phải chạy đi đâu cả mà dân San Hồ phải chạy là sao? Anh Chinh bảo dân Seo Tỷ ở cao nhất, tận vai ông trời sao phải chạy. Còn người San Hồ ở thấp, dưới bụng ông trời, phải chạy thôi. Nhưng ở chỗ mới thì lấy gì mà ăn khi chia nhau mỗi người được một khoảng đất bằng cái vạt váy. Người đã đành. Con dê ở đâu? Con trâu ở đâu? Con lợn ở đâu? Chưa kể, cái chỗ ấy lại chênh vênh trên sườn núi ông Sét. Đất không có, chỉ có đá. Nước không có, chỉ có gió. Mỗi năm, vào mùa sấm sét, đến núi còn phải vỡ toang ra kia.
Cay giục anh Chinh về thôi. Đi thôi. Cay biết nghe lời rồi, không cãi cùn nữa rồi. Cay nín nhịn, dìm xuống cơn tiếc nuối sục sôi trong buồng gan, giục giã vợ con. Bản của Cay, mỗi sườn núi đôi ba nhà, thênh thang, bình yên. Đi hết bản phải già một ngày. Thế mà, đến một ngày, dân bản đi hết, vắng tênh, buồn thiu. Dỡ nhà chỗ này chuyển đến chỗ kia. Cả bản đi chẵn tháng rồi. Cay đi cuối cùng.
Núi nứt ra. Nước phun từng cột lớn, ào ạt, cuồn cuộn. Bản của Cay, rồi bản người Tày, bản người Dao, người Giáy, tất cả những bản nằm trong thung lũng đều chìm nghỉm. Cả một vùng mênh mang trắng xóa. Nước lên tận trời rồi. Người và vật trôi bập bềnh, hỗn loạn. Cay nhìn thấy anh Chinh. Anh cán bộ nhà Cay cưỡi trên một cây gỗ lớn, cười ngạo nghễ. Cây gỗ trôi phăng phăng. Cay ngồi trong cái thùng đập lúa như con thuyền và cất tiếng gọi. Anh đi đâu đấy? Anh Chinh đáp lại. Anh ra biển đây. Cay không hỏi nữa vì cái thùng đã lật sấp. Biển là nơi nào? Cay cứ chìm xuống, chìm xuống. Mãi mà không thấy đáy. Cay hận anh Chinh. Nả nuôi anh ăn học bằng hạt ngô hạt lúa thơm dẻo của núi này rừng này, để anh khôn hơn người, giỏi hơn người, để anh làm cán bộ, cán bộ huyện hẳn hoi. Thế mà núi vỡ. Anh mặc nhiên để bà con, mùa màng trôi chết…
Cay vật lộn mãi rồi mới biết. Đó chỉ là giấc mơ. Một giấc mơ kinh hoàng ngay đêm đầu tiên trong căn nhà tạm, ngổn ngang đồ đạc. Hú hồn hú vía. Mười hai cái hồn cái vía, còn ở San Hồ thì về theo người. Nơi ấy ngập lụt hết rồi.
Con Sênh ngồi chồm hỗm trên giường, thản nhiên cầm cây mía còn cả gốc rễ lên ngang mặt, đưa cái gốc vào mồm cắn xé, tước vỏ, rồi nghiến ngấu, rồi ừng ực. Nó uống mía từ gốc uống lên, thứ tự như lửa nuốt củi, như rắn nuốt chuột. Sao đã ăn mía từ lúc gà còn ngủ say? Nó ăn xong cây mía, đùn xuống nền đất một đống bã thì lăn huỵch xuống giường ngủ tiếp. Thì ra nó mơ. Giấc mơ khát. May mà nó vớ được cây mía, phải cây gậy thì gãy hết cả răng chứ còn gì.
Đêm sau, sau một ngày nhọc nhoài lặn lội trên khe xa mới cõng về được mấy can nước cho cả nhà dùng dè, Cay lại mơ. Vẫn cái giấc mơ của con Sênh. Giấc mơ đi hết mọi hang hốc tìm nước. Cay đi tìm nước lại vớ được cái phích đầy nước. Thế là bỏng hết cả mồm miệng, bỏng vào đến tận gan ruột phải đi bệnh viện cả tháng, suýt chết. Ra viện, người ta bảo phải chuyển Cay đi bệnh viện tâm thần. Tâm thần thì mới uống nước bằng phích. Cay trốn viện về nhà lúc đang đêm.
Về nhà, nhà cửa hiu hắt. Vợ con bồng bế nhau về bản cũ gặt trộm lúa trong ruộng bậc thang nhà mình. Được bao nhiêu nhồi hết vào bao cõng về. Cái lưng nó cong, đêm nằm cũng cong như cái vỏ cây bị lột ra đem phơi nắng. Thức, nó kêu đau kêu mỏi. Ngủ, nó choàm choạp nhai vạt áo chàm, dãi từ mồm chảy ra đen kịt. Có đêm nó còn đưa cả bàn tay đứa con út vào mồm mà nhai. Đứa trẻ khóc thét lên đau đớn. Tỉnh giấc, nó bảo. Lúa ít, chỉ lo đói nên mơ thế.
Cay rất sợ những giấc mơ đói khát của vợ con và chính mình.
Anh Chinh lớn nhất nhà. Nả đẻ anh Chinh lúc nả mười lăm tuổi. Cả đời Nả nuôi người học. Nuôi hết bố thì đến con ăn học. Cái đứa không biết chữ, không biết cả tiếng phổ thông lại có chồng có con giỏi giang, làm cán bộ. Như Nả mới là giỏi. Vợ Cay cũng đẻ con Sênh lúc nó mười lăm nhưng con Sênh là gái, học biết chữ là được rồi, đủ rồi. Từ khi chuyển nhà, trường xa, nó cũng bỏ học luôn. Nếu có cuộc thi việc làm, thì con Sênh phải được nhất. Không phải nhất chăm chỉ, khéo léo, mà nhất lười biếng, vụng về. Từ lúc về nơi ở mới mà dự án quy định, chẳng có việc gì làm, con Sênh sinh cái thói ra ngắm vào vuốt, đi chải về chuốt làm duyên. Nó bỏ áo chàm, mặc áo phông. Bảo thế mới mát. Nó bỏ quần lanh, mặc quần bò. Bảo thế mới ấm. Nó bán áo chàm, bán cả thắt lưng, lấy tiền nhuộm tóc vàng hoe. Cay xấu hổ lắm. Con mèo hư, Cay cho một roi. Con trâu ngoan, è cổ kéo cày vẫn ăn roi. Tức con, đánh chó, đánh mèo thôi. Mặt con Sênh vẫn trơ ra. Chưa có cách nào với nó cả. Nó lớn mau quá. Quần bò cũng nhanh chật, mà áo phông thì cứ như bị co vào, chỗ nào cũng muốn đứt chỉ. Anh Chinh bảo, mười bốn mà lấy chồng là tảo hôn, sẽ bị xã phạt. Mười lăm có phạt không? Vẫn phạt. Thế bao nhiêu mới không phạt? Mười tám mới hết tảo, hết phạt. Trời ôi, ròng rã bốn năm nữa mới được gả chồng ư? Giá nó giỏi giang chăm chỉ như gái nhà khác thì nuôi bao lâu trong nhà cũng được. Bây giờ mà nặng lời, nó ăn lá ngón chết. Phí bao công nuôi dưỡng, mà làng xóm, họ hàng còn chê cười cho.
Cái thủy điện vẫn chưa cho điện mà đã lấy đi của San Hồ quá nhiều thứ. Lấy đi cái nết na chăm chỉ, chịu thương chịu khó của con gái San Hồ. Lấy đi cái ấm áp trong tình chồng nghĩa vợ. Những thứ ấy, không ai nhìn thấy. Họ chỉ thở dài chỉ tay lên rừng. Nơi ấy, cây lớn ngã đè lên cây bé. Rừng lớn đổ, rừng bé đổ. Nhựa cây hắc cả một vùng. Nghe anh Chinh nói vùng này có năm cái hồ như thế. Hồ về đâu thì rừng chỗ đó nhoe nhoét, nham nhở và bị triệt hạ. Những làng bản đẹp như tranh phải sơ tán vì nằm trong vùng nguy hiểm. Những thang ruộng mà dân đổ bao nhiêu mồ hôi nước mắt mới óng ả được thế cũng bị cày xới, san ủi. Lúc cấy, nước chả đủ. Ấy thế, khi được gặt, lũ thốc lũ tháo, trôi cả nhà cả cửa. Ai cũng biết rừng San Hồ là rừng thiêng. Thiêng mấy cũng chết. Chết chả có ai bênh được. Lúc rừng sống, rừng cho củi đun, cho gỗ làm nhà, cho thuốc chữa bệnh, cho nước trồng trọt... Khi rừng bị tàn sát, ai ai làm ngơ. Chả ai dám lên tiếng. Có học như anh Chinh mà không lên tiếng thì những người vô học như Nả như Cay sao dám nói gì. Cay hỏi “Có phải thủy điện chỉ mọc lên ở vùng sâu xa, nơi mà dân dốt nát không?” Anh Chinh giận lắm. Giận, Cay cũng vẫn nói. Con chim di cư vào mùa đông tránh rét để mùa xuân nắng ấm lại về. Còn con người, đã nhường đất, nhường ruộng cho thủy điện, có ngày về không?
(Số sau đăng hết)