Bác sĩ CKI Nguyễn Thị Nhã sinh năm 1962, quê ở huyện Đan Phượng, TP. Hà Nội. Chị hiện là Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Bưu điện. Hơn 20 năm chuyên sâu về hỗ trợ sinh sản, bác sĩ Nhã đã điều trị thành công, mang đến niềm hạnh phúc vô bờ bến, “giấc mơ có thật” cho hàng chục nghìn cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn.
Nhân ngày Quốc tế Phụ nữ 8.3, Báo Đại biểu Nhân dân đã có cuộc trò chuyện với bác sĩ Nguyễn Thị Nhã về con đường chị đến với nghề y, cũng như chuyên ngành điều trị vô sinh hiếm muộn, giúp rất nhiều cặp vợ chồng mong con “biến điều không thể thành có thể”.
Tháng 5 năm 1990, sự ra đi của người chị gái ruột sau một tai nạn giao thông ngay sau khi vợ chồng người chị ly hôn trở thành nỗi day dứt lớn nhất với bác sĩ Nhã.
8 năm chứng kiến chị gái sống trong mặc cảm, tủi khổ cùng cực vì không có con sau rất nhiều thời gian thăm khám, điều trị tại các bệnh viện, lại biết nguyên nhân khiến chị gái ra đi rất có thể do suy sụp, tuyệt vọng vì không thể thực hiện mong ước làm mẹ, cô sinh viên đại học y khoa chuyên ngành Ngoại Sản (bác sĩ Nhã lúc ấy) luôn tự dằn vặt “giá mình có thể làm điều gì đó, biết đâu cuộc đời chị mình sẽ khác?”.
Đây cũng là lý do sau này, khi có bất kỳ buổi học hoặc chương trình nào nói về vô sinh hiếm muộn, bác sĩ Nhã đều đến tham gia; cũng là lý do chị quyết định rẽ hướng sang học chuyên sâu về hiếm muộn khi đã ngoài tuổi 40 và thời điểm đó ngành này còn mới mẻ tại Việt Nam.


- Thưa bác sĩ, có lý do đặc biệt nào đưa chị đến với ngành y hay không?
Bác sĩ Nguyễn Thị Nhã: Tôi sinh ra tại một vùng quê ở huyện Đan Phượng, Hà Nội, trong gia đình làm nông bình thường. Ngày nhỏ nhà không có điều kiện, không có truyền hình để xem, cũng không được tiếp cận với đài, báo. Bố mẹ tôi không có định hướng nghề nghiệp cụ thể nào cho con cái mà chỉ mong các con ngoan ngoãn, chăm chỉ, sau này thoát ly khỏi cảnh “chân lấm tay bùn”, có cuộc sống đỡ vất vả hơn.
Tôi nhớ năm tôi 10 tuổi, thỉnh thoảng tại sân kho hợp tác xã có các đoàn kịch về trình diễn cho bà con xem. Tụi trẻ con nông thôn rất thích đi xem kịch, mỗi lần có đoàn về đều háo hức lắm. Một lần, tôi được xem vở kịch có tên “Đôi mắt”, nói về những người bác sĩ cấp cứu bệnh nhân. Tôi thấy áo blouse sao mà đẹp đến thế và các bác sĩ thật đáng ngưỡng mộ. Từ đó trở đi, tôi chỉ có một ước muốn duy nhất là trở thành bác sĩ.
Ngày xưa đăng ký vào đại học không như bây giờ, chúng tôi chỉ được đăng ký một nguyện vọng đại học và một nguyện vọng trung cấp. Năm 1979, tôi đăng ký vào trường Y ở cả hệ đại học và trung cấp. Tôi đỗ đại học Y, thừa 2 điểm rưỡi.
Sau khi tốt nghiệp trường Y chuyên ngành Ngoại Sản năm 1985, mấy năm đầu, tôi công tác tại bệnh viện huyện. Lương tháng của bác sĩ hệ ngoại được 17kg gạo, hệ nội được 13kg. Lương hầu như không đủ ăn, tôi vẫn phải nhờ bố mẹ hỗ trợ thêm. Có những lúc nhìn bạn bè học xong trung cấp thương nghiệp mấy năm đi làm, kinh tế khá giả còn mình thì vất vả quá cũng thấy chạnh lòng. Nhưng có lẽ chính niềm yêu thích với ngành Y đã giúp tôi có thêm động lực để tiếp tục cố gắng.

- Chị từng chia sẻ, việc gắn bó với chuyên ngành điều trị vô sinh hiếm muộn không phải là “cơ duyên” mà đó là “duyên nghiệp”. Vì sao lại như vậy?
Bác sĩ Nguyễn Thị Nhã: Năm 1990, tôi chính thức về công tác tại Bệnh viện Bưu điện. Hoàn thành chương trình đào tạo Chuyên khoa cấp I về sản vào năm 2000, năm 2005, tôi là bác sĩ đầu tiên của Bệnh viện đăng ký đi đào tạo về điều trị vô sinh, hiếm muộn tại Bệnh viện Từ Dũ (TP. Hồ Chí Minh). Thực ra, tôi đến với lĩnh vực còn rất nhiều mới mẻ tại thời điểm bấy giờ không phải vì thích, mà vì đã muốn tìm hiểu nó từ rất lâu.
Khi tôi vào đại học, chị gái tôi lấy chồng, nhưng nhiều năm không sinh được con. Suốt những năm tháng đó tôi luôn đồng hành, đưa chị đi thăm khám rất nhiều lần tại bệnh viện. Nhưng ngày ấy chuyên ngành về hiếm muộn ở miền Bắc chưa phát triển, tất cả cặp vợ chồng vô sinh vào bệnh viện thông thường đều chỉ khám vợ mà không khám chồng. Nhiều năm chạy chữa rất vất vả và tủi khổ nhưng chị tôi vẫn không có con. Cuộc hôn nhân kéo dài hơn 8 năm cuối cùng tan vỡ, vợ chồng chị tôi ly hôn.
Thời đó, chuyện một người phụ nữ lấy chồng nhưng ly hôn là điều tiếng rất nặng nề, trở thành gánh nặng tâm lý quá lớn với chị tôi. Tháng 5 năm 1990, chị tôi mất vì một tai nạn giao thông sau thời gian dài sống với nỗi khổ tâm như vậy. Mãi sau này, tôi mới biết nguyên nhân vô sinh không phải do chị gái mình. Tôi thương chị rất nhiều và luôn day dứt, trăn trở bởi đã không thể giúp chị có một kết cục tốt đẹp hơn.
Chính vì điều đó mà sau này, khi nghe tin có bất kỳ buổi học hay chương trình nào nói về vô sinh hiếm muộn, tôi đều đến tham gia. Tôi luôn nghĩ, nếu mình hiểu biết hơn về ngành hiếm muộn, có lẽ chị tôi đã không bất hạnh, không ra đi sớm như thế.
Năm 2005, khi tôi đang là bác sĩ Sản khoa tại Bệnh viện Bưu điện, biết lãnh đạo Bệnh viện chủ trương mở thêm Trung tâm Hỗ trợ sinh sản và cử bác sĩ đi đào tạo, tôi là người đầu tiên và duy nhất đăng ký tham gia. Thời gian của khóa đào tạo là 9 tháng, học tại TP. Hồ Chí Minh cách xa nhà hàng nghìn km. Thời đó điều kiện kinh tế, đường xá đi lại còn rất khó khăn, đi học là xa nhà biền biệt tận 9 tháng trời.
Tôi lúc ấy đã ngoài 40 tuổi, con gái lớn đang cuối cấp 3, chuẩn bị thi đại học, còn con út mới học lớp 6. Nhưng tôi thực sự rất muốn đi học. Rất may là chồng và các con tôi đều ủng hộ quyết định này, mọi người động viên tôi yên tâm đi học. Điều khiến tôi lo lắng và áy náy nhất là không thể đồng hành cùng con gái suốt thời gian cháu ôn thi đại học vất vả. Nhưng áp lực này cũng dần được giải tỏa vì con tôi rất hiểu chuyện. Cháu luôn gọi điện động viên: “Mẹ ơi mẹ cố lên, mẹ học giỏi vào nhé, mẹ không phải lo lắng gì cho con”. Rất mừng vì sau đó, bằng sự nỗ lực của bản thân, con gái tôi thi đỗ đại học.
Với tôi, việc đi học, tiếp cận với chuyên ngành điều trị vô sinh hiếm muộn lúc đầu chỉ là để thỏa mong ước có thể giúp đỡ người thân của mình, để không một lần nữa phải nhìn những người mình yêu thương rơi vào hoàn cảnh tương tự như chị gái tôi. Thế nhưng, khi bước vào nghề, gắn bó với nghề này mới thấy đây là lĩnh vực rất rộng, rất sâu và rất hay. Càng đi sâu, tôi càng yêu nghề. Nhiều khi, chúng tôi ngồi nói chuyện cùng các đồng nghiệp thường vẫn bảo nhau: Làm nghề này, không “nghiện” việc mới lạ đấy!


- Trung bình mỗi ngày, Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Bưu điện đón tiếp, điều trị cho hàng trăm người bệnh vô sinh, hiếm muộn. Công việc một ngày của chị trôi qua như thế nào?
Bác sĩ Nguyễn Thị Nhã: Buổi sáng tôi thường tới Bệnh viện từ rất sớm để dự giao ban đầu giờ rồi thực hiện các thủ thuật chọc trứng, chuyển phôi, hội chẩn, duyệt các ca bệnh cần phải phẫu thuật hoặc thăm khám, tư vấn cho người bệnh,... Buổi chiều công việc cũng tiếp tục như vậy cho đến khi kết thúc giờ làm việc. Tuy nhiên, ở mảng vô sinh hiếm muộn, công việc không chỉ dừng lại ở khám, điều trị trực tiếp cho người bệnh trong giờ hành chính. Người bệnh có thể gọi điện nhờ chúng tôi tư vấn bất cứ thời gian nào.
Điện thoại của tôi dường như không bao giờ “ngơi nghỉ”, cả ban ngày lẫn buổi đêm, không kể là ngày cuối tuần hay thậm chí là đêm 30, ngày mùng 1 Tết. Có thể nói, với công việc này, chúng tôi làm việc liên tục không mấy khi có giờ nghỉ, vừa ăn cơm vừa nghe điện thoại tư vấn, trả lời câu hỏi của người bệnh là điều bình thường.
Thực hiện các biện pháp hỗ trợ sinh sản, nhất là phương pháp IVF (thụ tinh trong ống nghiệm) là một quá trình, người bệnh đa số tới từ các tỉnh xa nên có rất nhiều vấn đề cần được bác sĩ tư vấn, từ dùng thuốc gì, ăn gì, uống gì, xử lý những tình huống phát sinh thế nào,...
Riêng việc các cặp vợ chồng thăm khám để bác sĩ căn cứ tình trạng sức khỏe sinh sản, đưa ra những chỉ định điều trị phù hợp, hiệu quả đã là một lộ trình. Bởi việc khám không phải chỉ một lần là xong, để tạo điều kiện thuận lợi cho người bệnh, chúng tôi thường tư vấn và hướng dẫn kỹ các mốc thăm khám quan trọng, những điều cần lưu ý đối với người vợ/chồng giúp họ tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại mà vẫn có kết quả xét nghiệm nội tiết, tinh dịch đồ, chụp tử cung vòi trứng, xét nghiệm về di truyền, nhiễm sắc thể... Từ đó, đưa ra tư vấn và chỉ định hướng can thiệp cụ thể, hiệu quả nhất.
Điều khác biệt khá thú vị của bác sĩ Hỗ trợ sinh sản mà chúng tôi thường nói vui đó là “rất đa năng”, người bệnh không chỉ gắn bó với chúng tôi trong quá trình thăm khám, điều trị vô sinh hiếm muộn. Điều trị thành công, người bệnh mang thai rồi sinh em bé, suốt trong quá trình từ tiêm kích trứng đến chọc hút noãn, tạo phôi, chuyển phôi, mang thai, cho tới khi em bé sinh ra, thậm chí ngay cả khi em bé đã được 1-2 tuổi nhiều cặp vợ chồng vẫn gọi điện nhờ chúng tôi tư vấn. Khi ấy, tôi lại hướng dẫn cụ thể để họ đưa con đi khám chuyên khoa Nhi hoặc những chuyên khoa phù hợp có liên quan.
Mong muốn lớn nhất của tôi đó là có thể giúp được tất cả các cặp vợ chồng mong con đều có thể đón được con yêu khỏe mạnh về nhà.

- Công việc vất vả, không mấy khi có thời gian dành riêng cho bản thân và gia đình, đây có phải là khó khăn và áp lực lớn nhất đối với một bác sĩ Hỗ trợ sinh sản?
Bác sĩ Nguyễn Thị Nhã: Thực ra thường xuyên bận rộn, vất vả không phải là áp lực, mà là niềm vui, động lực đối với tôi. Người bệnh phải tin tưởng và cần mình thế nào mới liên hệ hoặc tìm đến mình để thăm khám, điều trị.
Khó khăn và áp lực lớn nhất cũng là điều mà tôi trăn trở nhất đó là chưa thể thực hiện được mong muốn có thể giúp tất cả các cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn có được con yêu khỏe mạnh. Khi các cặp vợ chồng tới với chúng tôi, không chỉ họ mà bản thân tôi luôn mong sẽ giúp được 100% người bệnh đều có em bé. Nhưng điều đó chưa thể đạt được, vì rất nhiều khó khăn, người bệnh thì không phải ai cũng có bệnh giống ai, nhất là phụ nữ.
Nhiều chị em ở vùng sâu, vùng xa không hiểu rằng tuổi sinh đẻ của phụ nữ có hạn hoặc không có điều kiện để đi khám nên thường đi khám muộn. Cũng có các cặp vợ chồng vì áp lực cuộc sống, muốn có điều kiện kinh tế mới dám sinh con, đến lúc tới với chúng tôi thì mới biết chồng không có tinh trùng hoặc vợ bị suy buồng trứng, rất khó hoặc không còn cơ hội để có con của chính mình.
Hiện nay, lĩnh vực điều trị vô sinh hiếm muộn của Việt Nam rất phát triển, đã làm chủ tất cả các kỹ thuật mới, kỹ thuật khó. Từ nhiều năm nay, tỷ lệ người bệnh điều trị các biện pháp Hỗ trợ sinh sản thành công, có thai và sinh con khỏe mạnh của Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Bưu điện đạt từ 65 - 67% (mức cao so với các Trung tâm điều trị vô sinh, hiếm muộn trong và ngoài nước).
Không chỉ dừng lại ở việc giúp các cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn sinh được con yêu mà em bé sinh ra phải khỏe mạnh cả về thể chất và tinh thần, những năm gần đây, chúng tôi luôn cố gắng cải tiến kỹ thuật, cập nhật chuyên môn, ứng dụng những thiết bị mới, kỹ thuật mới để điều trị được nhiều nhất những nguyên nhân vô sinh, hiếm muộn. Đồng thời, giúp các cặp vợ chồng đã từng sinh con nhưng em bé sinh ra không khỏe mạnh do mắc các bệnh lý di truyền hoặc bất thường về gen, về nhiễm sắc thể có thể sinh con khỏe mạnh.
Gần 12 năm qua, Trung tâm đã giúp hàng chục nghìn cặp vợ chồng thỏa ước mơ được làm cha, làm mẹ, gia đình vẹn tròn hạnh phúc. Bên cạnh đó, hàng trăm gia đình từng sinh con không khỏe mạnh, bị mắc các bệnh lý di truyền hoặc không thể sinh con bởi bất thường về gen, về nhiễm sắc thể đến với chúng tôi đã mang em bé khỏe mạnh về nhà, nhờ thực hiện biện pháp hỗ trợ sinh sản IVF kết hợp với xét nghiệm di truyền tiền làm tổ.
Những kết quả ấy không chỉ nhân thêm niềm tin, hy vọng từ người bệnh mà cũng là động lực để chúng tôi tiếp tục cập nhật các kỹ thuật tiên tiến, không ngừng nâng cao chuyên môn, giúp cho nhiều hơn nữa các cặp vợ chồng mong con đến đích thành công. Tuy nhiên, như tôi đã nói, ngành Hỗ trợ sinh sản và các bác sĩ chúng tôi chưa thể đạt được mơ ước người bệnh vô sinh hiếm muộn nào đến với mình cũng 100% đón được con yêu.



- Niềm vui, động lực lớn nhất với chị khi làm nghề đến từ đâu?
Bác sĩ Nguyễn Thị Nhã: Làm nghề này rất dễ “nghiện” việc, phần vì bị cuốn theo guồng quay công việc, phần vì những niềm vui chúng tôi nhận được hàng ngày. Những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn, nhất là người bệnh vô sinh hiếm muộn lâu năm, khi mình giúp họ có được con, họ hạnh phúc lắm. Họ nhắn tin, gọi điện, gửi ảnh em bé thường xuyên để cảm ơn. Vì mong mỏi con lâu ngày, họ có rất nhiều cảm xúc và khi thành công họ cũng truyền lại những cảm xúc tích cực đó cho chúng tôi. Đó là động lực rất lớn, luôn khiến tôi cảm thấy tự tin và yêu nghề hơn.
Mỗi trường hợp đến với chúng tôi là mỗi hoàn cảnh khác nhau. Có rất nhiều câu chuyện cảm động trên hành trình tìm con của các cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn.
Là một bác sĩ hỗ trợ sinh sản, chúng tôi được nghe người bệnh kể về việc họ đã mong muốn, khao khát, lo lắng, đau khổ, thậm chí tuyệt vọng như thế nào trên hành trình tìm con. Chúng tôi được biết những gia đình kia từng sinh 1, 2, thậm chí đến 3 người con mà tất cả đều bị bệnh di truyền, bệnh hiếm, khiến các con không thể đi lại, ăn uống, không thể sống qua tuổi 20 hoặc phải điều trị bệnh suốt đời. Chúng tôi được nghe câu chuyện cùng nỗi khát thèm được một lần nghe tiếng con gọi “mẹ ơi, bố ơi” từ các cặp vợ chồng mang gen hoặc đã sinh con mắc các bệnh lý di truyền.
Nếu cũng chứng kiến tất cả câu chuyện ấy, chắc chắn bạn sẽ hiểu phần nào cảm xúc và mong muốn cháy bỏng của mỗi bác sĩ, chuyên gia hỗ trợ sinh sản như chúng tôi. Làm thế nào để mỗi gia đình đều có được niềm hạnh phúc vẹn tròn với thế hệ tương lại mạnh khỏe toàn diện - đó chính là điều mà tôi đã, đang và sẽ tiếp tục cùng đồng nghiệp của mình nỗ lực phấn đấu.

- Hơn 20 năm gắn bó với chuyên ngành điều trị vô sinh hiếm muộn, đã giúp đỡ cho hàng chục nghìn cặp vợ chồng hiện thực hóa giấc mơ đón con yêu, theo chị, điều gì cần nhất nếu muốn theo đuổi lĩnh vực này?
Bác sĩ Nguyễn Thị Nhã: Trên thế giới, em bé đầu tiên được sinh ra sau khi thụ thai bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) chào đời ở Anh năm 1978. Đến năm 1998, 3 em bé đầu tiên của Việt Nam được sinh ra bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, chào đời tại Bệnh viện Từ Dũ.
Mảng điều trị vô sinh hiếm muộn chỉ mới phát triển mấy chục năm, là lĩnh mới trong ngành y nếu so với các chuyên khoa khác, do vậy rất cần chịu khó tìm hiểu, chịu khó đọc, chịu khó cập nhật những cái mới và cá thể hóa từng bệnh nhân để rút ra những kinh nghiệm điều trị.
Tôi cho rằng làm bác sĩ trong lĩnh vực điều trị vô sinh, hiếm muộn, tay nghề là cần thiết nhưng điều quan trọng nhất là phải có cái tâm, phải làm việc bằng trái tim, làm sao bằng chuyên môn của mình có thể giúp cho người bệnh đi con đường ngắn nhất, hiệu quả điều trị cao nhất và ít tốn kém nhất.
Người bệnh vô sinh, hiếm muộn, nhất là phụ nữ chịu rất nhiều áp lực, tổn thương về tinh thần nên nếu cứ kéo dài điều trị cho họ năm này qua năm khác sẽ mất đi cơ hội làm mẹ bởi độ tuổi sinh đẻ của chị em có giới hạn. Hơn nữa đến nay, việc điều trị vô sinh, hiếm muộn vẫn chưa có bảo hiểm y tế, chi phí điều trị bệnh này ở Việt Nam tuy thấp hơn nhiều so với thế giới và khu vực Đông Nam Á nhưng so với thu nhập của người dân thì vẫn còn khá cao.
Người bác sĩ cần đặt mình vào vị trí của người bệnh để có thể đồng hành, sẻ chia bằng sự thấu hiểu, cảm thông, áp dụng kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn của mình giúp người bệnh thành công trên con đường điều trị ngắn nhất.
- Trân trọng cảm ơn bác sĩ Nguyễn Thị Nhã đã chia sẻ!