Nỗi lo nợ nước ngoài
Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới đây đã trình Thủ tướng Báo cáo “Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và nguồn vốn ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2018-2020, tầm nhìn 2021-2025”.
Một trong những điểm đáng chú ý của báo cáo này là về tình hình huy động vốn nước ngoài. Theo đó, dư nợ nước ngoài đều tăng qua các năm từ 2014 - 2017. Đặc biệt, trong 2 năm 2016 - 2017, nợ nước ngoài tăng nhanh với dư nợ lần lượt là 942,5 nghìn tỷ đồng (tăng 8,6%) và 1.045,9 nghìn tỷ đồng (tăng 11%), trong khi năm 2015 là 867,8 nghìn tỷ đồng. Tương tự, nợ được Chính phủ bảo lãnh cũng đã tăng 8,2% trong năm 2017.
Vì sao nợ nước ngoài của quốc gia lại tăng nhanh như vậy trong năm 2017? Có hay không việc chạy nước rút để vay được càng nhiều vốn rẻ nước ngoài càng tốt trước thời điểm nước ta “tốt nghiệp” các nguồn vốn này trong vài năm tới đây?
Trước tiên phải nhấn mạnh rằng, trong bối cảnh Chính phủ đang kiểm soát tốt nợ công (cả vay trong nước và nước ngoài) thì nợ nước ngoài tăng nhanh là do hoạt động vay nợ của khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước. Bởi theo luật, nợ công chỉ tính đến các khoản nợ mà Chính phủ vay nước ngoài, chứ không bao gồm các khoản nợ do doanh nghiệp tự vay, tự trả.
Cụ thể hơn, theo Bộ Tài chính, có hai nguyên nhân chính khiến nợ nước ngoài phình to trong năm 2017. Thứ nhất, do chênh lệch về lãi suất giữa tiền đồng và USD nên các tổ chức tín dụng đã tăng vay nước ngoài bằng ngoại tệ với chi phí thấp, sau đó hoán đổi sang tiền đồng nhằm tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Tuy vậy, có thể thấy đây không phải là nguyên nhân chính.
Thứ hai, theo Bộ Tài chính, nằm ở thương vụ bán vốn của Nhà nước trị giá 5 tỷ USD tại Sabeco vào cuối năm 2017. Theo đó, để có tiền mua cổ phần tại Sabeco, Công ty Vietnam Beverage - được thành lập theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam (doanh nghiệp Việt Nam), đã đi vay tiền ở nước ngoài thông qua sự bảo lãnh của tập đoàn mẹ là ThaiBev. Bản chất của tình huống này là một doanh nghiệp nước ngoài núp bóng một công ty Việt Nam để mua cổ phần của một doanh nghiệp Việt Nam khác. Bởi thế, khoản tiền 5 tỷ USD được tính là một khoản nợ của một doanh nghiệp Việt Nam là Vietnam Beverage thay vì được ghi nhận như một khoản đầu tư gián tiếp. Đây mới là mấu chốt khiến nợ nước ngoài của quốc gia tăng từ 44,8% GDP vào năm 2016 lên đến 49% GDP vào cuối năm 2017.
Tới đây, việc bán cổ phần các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được đẩy mạnh. Tình thế này đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước phải có giải pháp, tránh để xảy ra chuyện lách luật như trên.
Một vấn đề khác cũng cần nhắc tới là Bộ Tài chính dự báo nợ nước ngoài của quốc gia vào cuối năm 2018 sẽ khoảng 49,9% GDP, gần như chạm ngưỡng giới hạn QH cho phép (dưới 50% GDP). Nếu trần này bị phá vỡ thì bất cứ nguyên nhân nào cũng khó được chấp nhận. Khi đó niềm tin của các tổ chức tài chính quốc tế vào khả năng điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ Việt Nam sẽ sụt giảm. Vì thế, các cơ quan quản lý phải tiếp tục có các giải pháp rất căn cơ và chặt chẽ hơn nữa để kiểm soát và giảm dần dư nợ vay nước ngoài. Và trên hết, điều cần quan tâm đối với việc sử dụng vốn vay vẫn là hiệu quả kinh tế và năng lực trả nợ chứ không phải là vay được nhiều vốn rẻ. Nhiều nước nhận vốn vay nước ngoài đã lâm vào tình trạng dở khóc, dở cười vì chạy theo các dự án hoành tráng mà xem nhẹ hiệu quả thực tế.