Nội dung cơ bản của Luật Đo lường
Luật Đo lường với 9 Chương, 58 Điều được QH thông qua ngày 11.11.2011 và có hiệu lực từ ngày 1.7.2012. Luật này nhằm bảo đảm sự công bằng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong mua bán, thanh toán hàng hóa, dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân; góp phần thúc đẩy phát triển khoa học - kỹ thuật, tiết kiệm tài nguyên, bảo đảm an toàn, bảo vệ sức khỏe con người, bảo vệ môi trường; thúc đẩy lưu thông hàng hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Bao quát các hoạt động đo lường
So với Pháp lệnh Đo lường năm 1999, Luật đã xác định rõ phạm vi điều chỉnh, đồng thời quy định rộng hơn, không chỉ dừng lại ở việc điều chỉnh các hoạt động đo lường pháp định mà bao quát các hoạt động đo lường khác, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong hoạt động đo lường. Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng và duy trì hệ thống chuẩn đo lường quốc gia; bảo đảm kinh phí cho việc thực hiện các yêu cầu về đo lượng đối với chuẩn quốc gia do Nhà nước đầu tư, quản lý; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về đo lường; khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực về đo lường. Bên cạnh đó, Luật cũng có nhiều quy định nhằm khuyến khích xã hội hóa với hoạt động đo lường như: thiết lập và duy trì chuẩn đo lường; kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường; sản xuất phương tiện đo, chuẩn đo lường; đào tạo, tư vấn, nghiên cứu khoa học, ứng dụng và phát triển công nghệ về đo lường. Ngoài ra, Luật này cũng khuyến khích tổ chức, cá nhân sử dụng đơn vị đo pháp định thay thế đơn vị đo khác; áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trong hoạt động đo lường phù hợp với tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế. Ưu tiên sử dụng tổ chức kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm được công nhận, chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng phục vụ quản lý nhà nước về đo lường.
Khác với Pháp lệnh Đo lường, những quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động đo lường được quy định thành một chương riêng từ Điều 35 - 41. Bao gồm quy định chi tiết quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phương tiện đo, chuẩn đo lường; quyền và nghĩa vụ của các tổ chức kiểm định, hiệåu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường; quyền của người tiêu dùng liên quan đến hoạt động đo lường; quyền và nghĩa vụ của tổ chức xã hội - nghề nghiệp về đo lường…
Phê duyệt mẫu, kiểm định, hiệu chuẩn
Những quy định liên quan đến phê duyệt mẫu, kiểm định hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường được quy định tại Chương IV từ Điều 20 – 26 với nhiều nội dung mới như: quy định rõ kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm là hoạt động dịch vụ kỹ thuật; phân định hoạt động kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm bắt buộc để phục vụ quản lý nhà nước về đo lường với hoạt động kiểm định, hiệåu chuẩn, thử nghiệm tự nguyện phục vụ yêu cầu về đo lường của tổ chức, cá nhân; bổ sung nguyên tắc hoạt động kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường. Bên cạnh đó, Luật cũng sửa đổi, bổ sung quy định về tên gọi và điều kiện hoạt động của tổ chức được kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường.
Phép đo, lượng của hàng đóng gói là một chương có nhiều quy định mới so với Pháp lệnh Đo lường 1999. Cụ thể, Luật đã phân định phép đo thành 2 nhóm: Phép đo được thực hiện trong nghiên cứu khoa học, điều khiển, điều chỉnh quy trình công nghệ, kiểm soát chất lượng trong sản xuất hoặc các mục đích khác (nhóm 1); Phép đo được thực hiện để định lượng hàng hóa, dịch vụ trong mua bán, thanh toán, bảo đảm an toàn, bảo vệ sức khỏe cộng đồng, bảo vệ môi trường, phục vụ hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám định tư pháp và các hoạt động công vụ khác (nhóm 2).
Đối với lượng hàng đóng gói sẵn, Luật này quy định phân thành 2 nhóm; đồng thời bổ sung yêu cầu về đo lường đối với lượng của hàng đóng gói sẵn nhóm 1 để bảo đảm nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm; quy định yêu cầu về đo lường đối với hàng đóng gói sẵn nhóm 2 làm căn cứ bảo đảm yêu cầu quản lý theo quy định của pháp luật.
Xử lý vi phạm pháp luật về đo lường
Thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về đo lường gồm 3 Điều (từ Điều 50 - 52) quy định thanh tra về đo lường, đối tượng và nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành về đo lường, xử lý vi phạm pháp luật về đo lường. So với Pháp lệnh Đo lường năm 1999, Luật có nhiều quy định mới như: quy định rõ Thanh tra, Bộ Khoa học và Công nghệ, Thanh tra Sở Khoa học và Công nghệ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về đo lường thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đo lường. Quy định trường hợp vi phạm hành chính về đo lường có số tiền thu lợi bất chính trong suốt quá trình vi phạm lớn hơn mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực đo lường theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính thì áp dụng hình thứác phạt tiền với mức bằng từ 1 - 5 lần số tiền thu lợi bất chính đó. Cá nhân, tổ chức vi phạm còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung, thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả và thực hiện các quy định khác của phát luật về xử lý vi phạm hành chính.
Tài liệu Văn phòng Chủ tịch Nước