Bảo đảm thống nhất, đồng bộ
Theo Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam TS. Nguyễn Quốc Thập, ngày 21.10 tới, Quốc hội Khóa XV sẽ khai mạc Kỳ họp thứ Tám. Tại kỳ họp lần này, Quốc hội sẽ cho ý kiến và quyết định nhiều nội dung quan trọng, trong đó có dự thảo Luật Điện lực (sửa đổi).
"Việc thể chế hóa đầy đủ các nội dung của Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11.2.2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Kết luận số 76-KL/TW và các chủ trương, chính sách của Đảng vào Luật Điện lực sẽ khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài tham gia hoạt động điện lực tại Việt Nam; tạo sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật; thúc đẩy đầu tư ngành năng lượng nói chung và ngành điện nói riêng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội", TS. Nguyễn Quốc Thập nhấn mạnh.
Quán triệt tinh thần đó, các bộ, ngành, cơ quan quản lý Nhà nước đã và đang triển khai xây dựng và đề xuất các cơ chế chính sách pháp luật nhằm hiện thực hóa các chủ trương chỉ đạo, định hướng của Bộ Chính trị về lĩnh vực năng lượng. Trong đó, Bộ Công Thương (với tư cách là cơ quan chủ trì) đã triển khai xây dựng dự án Luật Điện lực (sửa đổi) và tiến hành lấy ý kiến rộng rãi của các cơ quan, tổ chức, cá nhân từ ngày 28.3.2024.
Cùng với đó, Tổ công tác rà soát các vướng mắc pháp lý trong triển khai dự án điện, chỉ đạo, phối hợp hoàn thiện dự án Luật Điện lực (sửa đổi) và các luật có liên quan cũng được thành lập với thành phần là các cục, vụ có liên quan thuộc Bộ Công Thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, để rà soát các vướng mắc về pháp lý và hoàn thiện Dự án Luật.
Mặc dù vậy, theo TS. Nguyễn Quốc Thập, qua nghiên cứu, tổng hợp và so sánh với những định hướng, chủ trương của Nghị quyết số 55-NQ/TW, Quy hoạch Năng lượng Quốc gia và Quy hoạch Điện VIII; Hội Dầu khí Việt Nam nhận thấy, việc hiện thực hóa các dự án nguồn điện khí, khí LNG và điện gió ngoài khơi vẫn tiếp tục gặp khó khăn, vướng mắc đối với các cấp quản lý, các chủ thể và nhà đầu tư trong chuỗi dự án. Điều đó dẫn tới nguy cơ làm chậm và không bảo đảm tốc độ phát triển các dự án nguồn điện trong ngắn hạn và dài hạn theo quy hoạch.
Phó Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam, TS. Nguyễn Hùng Dũng kiến nghị, cần bổ sung quy định, cơ chế giải quyết các vướng mắc về chính sách trong hoạt động điện lực; xây dựng cơ chế bảo lãnh, quản lý Chính phủ về đa dạng hóa đầu tư hạ tầng truyền tải điện; xây dựng cơ chế giá trị phí truyền tải điện theo cơ chế thị trường. Đặc biệt, dự thảo Luật cần có quy định cụ thể về cước phí nhập khẩu, tồn kho và phối hợp khí. Đồng thời, bảo đảm sửa đổi, bổ sung đồng bộ các luật liên quan như Luật Bảo vệ môi trường; các Luật về Thuế; Luật Tài nguyên Môi trường biển và hải đảo.
Hoàn thiện quy định phát triển dự án điện gió ngoài khơi
Đại diện Ban Điện và Năng lượng tái tạo, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cho biết, theo quy hoạch điện VIII, đến năm 2030, công suất đặt điện gió ngoài khơi là 6.000 MW chiếm 4,0% công suất đặt của hệ thống; đến năm 2050, công suất đặt điện gió ngoài khơi là 70.000 - 91.500 MW chiếm 14,3 - 16% công suất đặt của hệ thống, đứng thứ hai tính theo quy mô công suất đặt. Điện gió ngoài khơi phục vụ xuất khẩu được khuyến khích phát triển không giới hạn.
Song, quy định pháp luật hiện tại chưa thể điều chỉnh đầy đủ được việc phát dự án điện gió ngoài khơi. Cùng với đó, còn có nhiều trở ngại, bất cập của pháp luật về điện gió ngoài khơi liên quan đến nhiều Bộ luật, Luật cũng như chức năng của nhiều Bộ, ngành; chưa có quy định, cơ chế để phát triển dự án đầu tiên trong giai đoạn khởi tạo.
TS. Dư Văn Toán, chuyên gia về năng lượng tái tạo cũng nêu những vướng mắc của dự án điện gió ngoài khơi. Đó là chưa rõ cấp có thẩm quyền giao khu vực biển, cho phép hay chấp thuận cho các tổ chức sử dụng khu vực biển để thực hiện hoạt động đo đạc, quan trắc, điều tra, thăm dò, khảo sát, nhằm phục vụ lập dự án điện gió ngoài khơi. Đồng thời, còn vướng mắc về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư; các điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi.
"Đặc biệt, vẫn còn có cách hiểu khác nhau về việc cho phép (hoặc không cho phép) tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện hoạt động đo gió, khảo sát địa chất, địa hình trên biển. Bên cạnh đó, chưa quy định cụ thể về hồ sơ, tài liệu, trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết việc chấp thuận đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển", TS. Dư Văn Toán chia sẻ.
Theo các chuyên gia, hiện vẫn chưa quy định "được phép" hay "không được phép" cùng thực hiện khảo sát trong trường hợp có nhiều đề xuất trong cùng một khu vực biển hoặc đề xuất có sự chồng lấn, giao thoa; chưa quy định cụ thể thời gian xem xét, thẩm định, chấp thuận hoạt động đo gió, quan trắc, khảo sát địa chất, địa hình, đánh giá tác động môi trường trên biển phục vụ lập dự án điện gió là bao nhiêu ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ.
Cùng với đó, chưa quy định thời hạn chấp thuận thực hiện hoạt động đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển; chưa quy định về nội dung báo cáo, thời điểm gửi báo cáo kết quả đến cơ quan đã chấp thuận hoạt động đo gió, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tác động môi trường trên biển.
Khẳng định thời gian đầu tư xây dựng dự án điện gió ngoài khơi cần khoảng từ 7 - 10 năm kể từ thời điểm bắt đầu khảo sát, đại diện Ban Điện và Năng lượng tái tạo cho rằng, nếu không sớm ban hành hành lang pháp lý để tiến hành phát triển dự án ngay thì việc đạt mục tiêu đưa các dự án điện gió ngoài khơi vào vận hành đến năm 2030 như Quy hoạch Điện VIII là không khả thi.
Chính vì vậy, dự thảo Luật Điện lực (sửa đổi) cần có quy định về phát triển điện gió ngoài khơi, theo hướng: giao doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và/hoặc công ty con (do doanh nghiệp nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ) thực hiện đầu tư dự án điện gió ngoài khơi đầu tiên; bao gồm dự án điện gió ngoài khơi bán điện cho thị trường trong nước và dự án điện gió ngoài khơi xuất khẩu điện.
Trong đó, bảo đảm 3 yếu tố: cơ chế tính giá điện phản ánh đầy đủ các chi phí đầu tư và sản xuất; bảo đảm huy động sản lượng theo khả năng phát của nhà máy; cho phép hợp tác đầu tư với các đối tác nước ngoài có năng lực và kinh nghiệm về lĩnh vực điện gió ngoài khơi.