Những kẻ chờ sung (Phần 2)
Truyện ngắn của Lê Minh Khuê

11/09/2012 08:23

>> Những kẻ chờ sung (Phần cuối)

>> Những kẻ chờ sung (Phần 1)

Hai vợ chồng bàn tính rì rầm làm cho cô sinh viên Xinh từ hôm biết mình là cháu ruột của cái mỏ vàng bên Pháp, đã mặc váy mini và môi thì tô đỏ như vừa húp tiết, phải cáu lên: Để cho người ta học với! Cô Xinh có tính gan lì, không bao giờ nói to, nhưng khi cô ra đứng ở sân, hai tay chống hai bên hông là lũ du côn có máu mặt ở khu tập thể nhoẻn cười hiền lành rồi tìm cách lủi hết. Cô chỉ nói vài câu, giọng cũng êm nhẹ như tiếng dao cạo rạch lên mặt... Chỉ nhẹ nhàng thế thôi nhưng không ai dám ho he khi nhà cô chiếm cả cái sân trước là sân chung. Mỗi tội học dốt. Lão Tê đã công nhận rồi. Họ nhà lão phải cái chậm về đường chữ nghĩa. Cả ba đứa con lão cho học tiếng ngoại hết. Đứa tiếng Anh, đứa tiếng Nga, cô út Xinh tiếng Pháp cho nó bõ ngày xưa cả nhà lão chữ bẻ đôi không tường. Đứa nào cũng đúp lên đúp xuống đến ba bốn năm. Cuối năm nào lão Tê cũng phải đến ban giám hiệu nhà trường và năm nào ông tổ chức cũng phải nghe đi nghe lại cái lý lịch nhà lão. Mà đã có lệnh rõ ràng: ưu tiên chiếu cố thành phần... Đành phải vớt. Người ta vớt mãi, vớt mãi như vớt kiến trôi dưới cống đến nỗi phát chán và khi chán rồi thì người ta cho đỗ. Hai đứa đầu của lão đã đỗ và được bổ đi dạy học. Nghe đâu lão đã hát cái lý lịch của nhà lão ở hai cái trường kia đến mức người ta cũng ngán, đành phải nhận con lão vào làm. Thằng tiếng Anh dạy không nổi, người ta chuyển qua lo công chuyện ở phòng giáo vụ, xem vậy là yên. Còn cô Xinh năm nay mới đúp lần thứ ba, nghe nói lúc này “lý lịch trong sạch” đã bị dẹp sang một bên, nhường chỗ cho đồng đô. Vậy thì lão sẽ có đô và con lão nhất định sẽ thành bà. Số của lão vậy mà sướng.

3

Vào buổi trưa, lão Tái từ vườn quả về nhà, vai vác một ôm cành lão vừa tỉa cho đám cây tới lứa. Con chó mực, cả nhà lão hay gọi là con Thèo, trông thấy chủ, nhảy một phát lên lưng lão, chồm cả hai chân lên vai áo và liếm mãi mái tóc bạc của chủ. Mụ Tái đang ngồi trên bậc thềm, yên lặng nhìn cái cảnh ấm áp giữa người và vật, đầu óc suy tính xem cuối năm nay, bán đám lợn giống, cây giống kia đi thì đã đủ lên cái mái bằng chưa? Ở vùng rừng núi cách xa nơi đô hội đến hàng tuần ngày đi này người ta bắt đầu nhao nhác chuyện sắm ti vi vì nghe nói sắp có điện, mua sập gụ tủ chè và đổ nhà mái bằng. Đứa con gái duy nhất của vợ chồng mụ, đứa con muộn mằn mụ đẻ khi chồng mụ đã bốn lăm, mụ bốn mươi, năm nay học lớp mười một. Tương lai như vậy là sáng sủa, vì sang năm cái Thải vào đại học, vợ chồng mụ sẽ đưa nó xuống trường tận Hà Nội, hàng tháng sẽ chu cấp cho vài ba trăm nghìn, trích từ tiền bán chuối, bán dứa. Nhất định nhà vợ chồng mụ phải có tí chữ nghĩa cho bõ ngày xưa lớn lên từ bãi rác thải. Khi khu đất này thành trang trại, um tùm cây cối, giàu có nhất vùng thì khách du lịch đi thăm núi Voi sẽ ghé qua đây ngắm cảnh. Vợ chồng mụ sẽ thu tiền tấn chứ không chơi.

Minh họa của Đặng Hồng Quân
Minh họa của Đặng Hồng Quân

Mặt trời quẩn bóng dưới chân, mọi vật uể oải, nhưng vợ chồng lão Tái lại thấy cơ bắp trong người căng ra, do cảnh sung túc no nê từ khi mấy ông huyện, ông tỉnh không còn nhòm ngó vào đồng tiền bát gạo của từng nhà. Đi bán mấy trái cây không bị tịch thu, nấu nồi rượu không bị nẫng hết. Muốn làm gì thì theo ý mình. Hóa ra làm ăn chăm chỉ với màu mỡ đất đai như thế này thì không bao giờ đói được. Chỉ cần chân tay thật dẻo. Mụ Tái bảo chồng:

- Có khoai luộc tôi để trong lồng bàn.

- Nắng này nuốt thế đếch nào được!

- Tưởng ông thích giải lao cái bụng. Vậy để tôi đi nấu bát mì.

Lão Tái bước lại bàn thờ châm đóm vào đèn dầu, tiện tay bật luôn cái đài cho nó vui nhà. Rít hai điếu thuốc lào xong, lão lim dim ngồi trong ghế tựa nghe hát dân ca. Rồi lơ mơ ngủ. Bỗng lão bật dậy chồm cả hai chân lên bàn:

“Anh là Lê Tê, nhắn tìm em là Lê Tái. Đầu năm bốn bảy, mẹ đưa hai anh em đến chợ Đoạn mua cho một cái bánh đa rồi mẹ bỏ đi mất. Cả ngày em khóc gọi mẹ. Sau có một bà buôn chuyến lên mạn ngược, đưa cho anh hai hào rồi bồng em đi. Mấy chục năm anh cố ý tìm em mà không gặp. Bây giờ em ở đâu về với anh ngay, ở địa chỉ sau đây”...

Mụ Tái lao vào đỡ vai chồng khi thấy lão Tái đờ ra như cá mắc cạn.

Miệng lão lắp bắp, dãi rớt ra cả đống tướng. Lão cứ ngồi yên cho vợ, người đàn bà sinh ra ở một vùng biển, có thời nghèo khổ đến nỗi vú đã thây lẩy mà không có nổi cái che trên, che dưới, phải che bằng lá chuối khô, bóp chân tay và miết trên thái dương lão. Vợ lão lúc này đã già, vú như hai núm giẻ dính trên ngực nhưng mụ lại mặc áo màu mỡ gà đi làm rẫy. Trong cái tủ đóng bằng gỗ vườn nhà, mụ có tới năm cái áo lành lặn. Da dẻ mụ đỏ au vì no đủ, vì quanh năm làm việc chân tay. Mụ lưu lạc lên đất đồng rừng này cũng trong hoàn cảnh bị bán làm con nuôi cho một người Dao Tiền nên khi thành vợ chồng với lão Tái, mụ chăm lo cái tổ ấm muộn màng như một kẻ đã bỏ quan tài rồi bỗng nhiên sống lại. Mụ xăm xắn xoa vùng thái dương, vùng ngực cho chồng kỳ đến khi lão Tái thở phào ra được, hai giọt nước mắt như hai viên sỏi trắng lăn xuống cái má đầy rãnh sâu hoắm của lão. Mụ lào phào:

- Thôi, tĩnh trí lại đi đã!

- Anh ơi, vậy là anh còn sống! Bà ạ, tôi phải đi thôi...

- Thầy nó cẩn thận, lỡ ra lầm tên thì sao?

- Lầm... Lầm cái gì? Tên là Lê Tê, Lê Tái lúc thầy đặt cho, thầy đã bảo rồi, không có nhà nào đặt tên như vậy. Khắp vòm trời này bố ai đặt tên con là Tê, Tái...

Mụ Tái đành im. Mụ chuẩn bị tay nải cho chồng và ngao ngán nhìn ra quả đồi. Thế là không kịp làm cỏ cho sào chè mới trồng!

Ngay hôm đó, lão Tái đi xe đò về tỉnh, ngồi giữa những bà buôn chuyến táo tợn mồm vừa nhai, vừa nói suốt dọc đường đi. Về tỉnh lão đổi xe về thành phố, tay nắn bóp cái nắm tiền giắt trong cạp quần đùi, tiêu pha dè xẻn như mọi lão nông biết giá trị của từng xu mồ hôi nước mắt, dù lúc này vợ chồng lão đã khá giàu. Theo địa chỉ ghi được trên đài phát thanh, lão tìm dễ dàng nhà lão anh và nhận ngay ra lão Tê, khi lão vừa bước chân lên bậc thềm. Mấy chục năm, lão Tái vẫn lưu giữ cái hình hài của anh còm nhom trong chiếc quần đùi rách giữa cái rét tháng chạp ở chợ Đoạn, nửa thân trên không áo giơ ra những chiếc xương sườn như những luống cày trên màu da xám đen vì đói, vì rét. Đứa trẻ ấy lúc này cao lòng ngòng, lưng hơi gù, tướng mạo hung dữ, đôi mắt nhỏ như hai sợ chỉ vắt ngược trên cái trán thấp lè tè. Lão Tái ôm lấy anh và cả hai lão cùng òa khóc. Đám con lão Tê, anh nói tiếng Anh, chị nói tiếng Nga, cô học tiếng Pháp, toàn mặc bò một cây, tóc tai sực nức mùi gôm dởm mà mũi lão Tái chưa bao giờ ngửi thấy, đứng quây lấy ông chú ruột. Dù thế nào chăng nữa máu đào cũng hơn nước lã và dù cả đời sống trí trá, người ta cũng có phút nào đó thực lòng, cả nhà lão Tê vui tưng bừng vì tìm ra ông chú.

Ở chơi được nửa ngày, lão Tê dành được ít thời gian ngồi đàm đạo với em. Hai anh em lão ngồi trước cái mâm có vài con cá rán, đĩa lòng lợn đã bốc mùi ôi mua buổi chiều cho nó rẻ. Lão Tê nổi tiếng vắt cổ chày ra nước, bụng khỏe như cỗ máy nghiền đá, cái gì vào đấy cũng tiêu một cách triệt để nên lão thường xài đồ thiu thối ở chợ chiều, những thứ nếu không ai rước là người ta đổ xuống cống. Lão Tái sống ở đồng rừng quanh năm hít thở không khí trong lành, lão cũng hà tiện nhưng các thứ rau quả vườn nhà có là loại xấu bao nhiêu đi nữa cũng thanh tao hơn cái thứ lòng lợn này nên lão nhăn mặt khi ăn miếng ruột non có mùi chuồng phân mà lão anh gắp cho. Hai lão khề khà khá lâu. Là một lão già đã lăn lóc, gian manh suốt mấy chục năm ở chốn phố phường chợ búa, lão Tê vừa nhìn thấy lão Tái đã đoán ngay tới cái gia sản ở vùng rừng do hai bàn tay vạm vỡ kia làm ra. Và khi tan cuộc rượu với lòng lợn thiu, lão Tê đã nắm được toàn bộ tài sản một đời chắt bóp của lão em. Hai mắt lão tít lại, nhỏ hơn nữa, giấu trong đó những ý nghĩ chỉ có trời biết. Lão bắt tay vào vạch kế hoạch và dẹp hẳn tình cảm máu mủ sang một bên.

4

Khác hẳn lão anh, lão Tái chất phác ngu ngơ nói năng chậm như rùa, chỉ suốt ngày làm hùng hục. Mụ Tái cũng như vậy. Giữa đồng rừng người ta đi ngủ còn chả chốt cửa, đi ngựa cả ngày mới ra tới bến xe xuôi tỉnh, có ai biết lừa lọc ai bao giờ. Cái Thải da dẻ trắng trẻo vì không khí miền núi trong sạch, đi trọ học ở trường huyện, gần đây có biết đôi ba mùi vị phố phường qua vài cuốn sách nhàu nát do mấy bà buôn chuyến để lại cho. So với đám cô Xinh, cái Thải y như con gà công nghiệp lạc vào giữa đám gà mái ta sành sỏi chuyên kiếm ăn trong vườn.

Lão Tê ngược đường rừng về với lão Tái ngay trong tuần đó. Qua màn nước mắt hội ngộ với em dâu, với cháu, lão bắt đầu múa mép khua môi.

Lão thuyết phục em dâu và cháu gái với những hứa hẹn huy hoàng. Lão thừa hiểu đám dân như vợ con lão Tái cũng dễ cho uống nước đường và trong những lời bay bướm, hình ảnh Mari Cành lung linh ở trung tâm với những ôtô nhà lầu, với hoa tai vòng ngọc, với mùi nước hoa và cái chính là đô la cả đống... Gì chứ đô la ở bên Tây dễ nhặt như người ta nhặt vỏ sò trên bãi biển. Chả thế mà ai về nước trông cũng sáng choang như đèn măng sông. Cơ chừng chỉ cuối năm nay tôi với chú chả comlê cà vạt đi dạo ở Paris như trong phim ảnh ấy. Biết đâu được? Cái Xinh nhà tôi, cái Thải nhà chú chả lại cắp nách mỗi cô một ông mắt xanh mũi lõ...

Những lời ấy làm lão Tái như hóa rồ. Mụ Tái cũng xăng xái nhưng là người quen với nơi xa đô hội, mụ cũng còn tiêng tiếc cái khu đồi vườn, ruộng rẫy nhà cửa mà vợ chồng mụ đã tạo dựng bằng mồ hôi nước mắt, lúc thì giành giật với đất trời mưa nắng lúc thì đấu tranh với ông huyện ông xã đến hạch sách thuế má. Vì vậy, cả hai người đàn ông phải bỏ mấy ngày mới dứt được mụ ra khỏi đất của mụ.

Chỉ hai tuần sau, với sự hợp sức của lão Tê, một thứ ma lanh khủng khiếp mà thời chính sách lý lịch bần nông trong sạch đẻ ra, vùng đồi rẫy mênh mông cùng với cái nhà ngói năm gian, cùng với khu nhà bếp chăn nuôi đã được sang tên cho một cặp vợ chồng người Kinh. Một cặp vợ chồng loại kẻ cắp bà già vì phẫn chí gì đó mà mò lên tận nơi này ở ẩn.

Đất đai nhà cửa ở đây rẻ hơn bèo, nhưng khu cơ ngơi của vợ chồng lão Tái cũng thu được đến chín cây. Vàng trao tay rồi, vợ chồng lão cùng cái Thải theo lão Tê về nơi thành thị. Cái Thải trông cực kỳ ngon mắt với má bồ quân, với tóc xanh, chỉ phải cặp chân leo núi gồ ghề, sù sụ và cái vẻ ngố nghếch của đứa con gái đồng rừng làm người ta nhận ra ngay nơi xuất xứ. Lần đầu được về thành phố, cái Thải cứ mở mắt trân trân, nhìn từ mụ ăn xin đến cô nàng mặc soóc đi xe máy.

Cô Xinh, váy nhặt ở hàng bành, mặc hở cả đùi non, áo hở cả nách nhìn rõ đám lông đen nhánh, thứ lông nách mọc dài cứng như lông voi mà các cụ thường bảo đứa con gái nào có nhiều, đích thị là đồ háu trai, cô Xinh cứ cho nó thòi ra thách thức - chạy tới ngắm một cách thèm thuồng hai cái má không cần son phấn của cái Thải. Mụ Tê mắt tít như hai sợi chỉ, mặc đồ xoa, tay đeo nhẫn mặt ngọc khen cô em dâu có nước da săm sắn. Hai mẹ con dịu ngọt, tận tình với mẹ con mụ Tái như kiểu mấy mụ tú bà chỉ bảo đám gái quê.

(Số sau đăng hết)

    Nổi bật
        Mới nhất
        Những kẻ chờ sung (Phần 2)<br><i>Truyện ngắn của Lê Minh Khuê</i>
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO