Những chân dung của Egon Schiele

Nguyễn Thiện Hoàng Dương dịch
Từ Financial Times
12/04/2011 07:54

Egon Schiele là một họa sỹ lập dị người Áo, tập trung vào chủ đề tình dục, chết chóc, và khám phá. Hãy cùng Rachel Spence cảm nhận mảng tác phẩm chân dung của ông ở một triển lãm tại Belvedere, Vienna.

Tự họa của Egon Schiele
Tự họa của Egon Schiele

Egon Schiele mất năm 1918, nhưng bóng ma Cuộc đại thảm sát vẫn ám ảnh triển lãm các tác phẩm chân dung của họa sỹ trường phái biểu hiện người Áo. Đôi khi, nó có vẻ lởn vởn trong chính tác phẩm của Schiele: những thanh niên xương xẩu, đôi mắt lờ mờ thấy khoảng đất xa xăm địa ngục. Schiele bám lấy người tình trong một phong cảnh trong sách Khải huyền, tay cô teo quắt như que củi màu tro trắng, còn đôi mắt ông chằm chằm vào một điều rùng rợn không nói nên lời.

Dù tin bản thân là một nhà tiên tri, Schiele đã không dự đoán được những bạo tàn đang đến. Nhưng thói quen đem nhân vật tới tận cùng của nỗi thống khổ gợi ý rằng, cao hơn mối đe dọa bên trong của chính mình, ông cũng hấp thu những căng thẳng bệnh lý nảy mầm từ trào lưu nghệ thuật ở Vienna cuối thế kỷ XIX. Thành phố có thể đã là nhà của Freud, Schnitzler và Schoenberg nhưng nó cũng che chở một chủ nghĩa dân tộc dữ dội trên đà hồi phục, điều thường xuyên bày tỏ sự chống đối phong cách Xêmít.

Nhiều nhân vật của Schiele là người Do Thái. Trong những thập kỷ gần đây, một vài tác phẩm của ông (từng bị Phát xít tước đoạt bất hợp pháp từ những người sở hữu) là tâm điểm của những yêu cầu bồi hoàn. Bảo tàng Leopold, đối tác mang những tác phẩm quan trọng tới triễn lãm, đang đàm phán với những người thừa kế của các nhà sưu tập Do Thái về sáu tác phẩm của Schiele, và với những người thừa kế của Oskar Reichel, người có chân dung màu nước được Schiele vẽ trong triển lãm, về ba bức họa của Anton Romako.

Tự họa (1912)
Tự họa (1912)

Sự bồi hoàn là một vấn đề không hề đơn giản. Tuy nhiên, thất bại của những người quản lý khi không thừa nhận sự liên quan và vai trò của những nhà sưu tập Do Thái với các tác phẩm của Schiele đã cản trở một triển lãm bước ngoặt và giàu nhận thức hơn.

Kể từ khi thu hút sự chú ý quốc tế trong những năm 1960, cái tên Schiele luôn đồng nghĩa với những hình ảnh phụ nữ khêu gợi. Những búp bê khiêu khích, uyển chuyển của ông là chất liệu của trí tưởng tượng đàn ông ở một xã hội đắm chìm trong ảo ảnh của sự cởi mở tính dục mới nổi.

Triển lãm này, không hề có một hình ảnh nào như vậy, mà tập trung vào các bức chân dung. Chúng tạo nên phần lớn các tác phẩm của ông, khoảng hai phần ba các phác họa và một phần tư những bức vẽ. Đó là một chúc thư cho sự lôi cuốn của các tác phẩm đặc sắc của ông mà không triển lãm nào trước đó có được.

Thay vì Svengali dâm đãng trong thần thoại, Schiele được cho là một nhân vật phức tạp hơn. Cũng có chân dung phụ nữ nhưng phần lớn khách hàng của ông là những quý ông phong lưu sung túc. Những bức thư gửi tới những người sống ở Vienna này chứng tỏ sự bảo trợ của họ rất quan trọng cho sự ổn định kinh tế và tinh thần của Schiele.

Sinh năm 1809 ngay ngoại vi Vienna, Schiele lớn lên trong môi trường mà mệnh lệnh của cha là nguyên tắc. Nhóm các họa sỹ nổi loạn của Klimt từ chối những quy cách truyền thống để đi theo hào quang của trường phái ly khai. Cha Schiele mất vì giang mai năm ông mười bốn tuổi, để lại gia đình trong đói nghèo.

Hai năm sau, Schiele trở thành sinh viên trẻ nhất tại Học viện Mỹ thuật Vienna.  Ông tuân theo lẽ truyền thống, tạo ra những phiên bản thạch cao của các tác phẩm điêu khắc cổ đại. Hai phác họa - Ngực Artemis và ống tên (1906), Đầu Medusa (1906) - cùng các mẫu tượng cũng có mặt ở triển lãm. Hình mẫu phác thảo, và lối tuân thủ truyền thống mệt mỏi để lộ ra sự thiếu thốn cảm hứng của ông.

Schiele sớm chịu ảnh hưởng từ sức quyến rũ đặc sắc, sâu rộng của Klimt. Trong Đôi lứa năm 1909, một người đàn ông cởi trần che chở một phụ nữ đội mũ trùm đầu trong sải cánh chiếc áo choàng. Đường nét tạo hình như điêu khắc của gương mặt cô gái, gắn với mặt phẳng tranh trên giấy mỏng là đặc tính của bậc thầy trường phái ly khai. Tuy thế màu sắc đều đều buồn tẻ và phông nền không có trang trí diễn tả một tầm nhìn sống còn hơn của chính Schiele.

Một năm sau, khi đã tạo dựng tên tuổi trong những người tiên phong ở Vienna, Schiele bỏ trường mỹ thuật. Buộc phải cùng lúc kiếm sống và phát triển phong cách riêng, ông bổ sung sự tinh túy đường nét kiểu Klimt với nét cọ không ngừng nghỉ, căng tràn nhựa sống và bảng màu mạnh mẽ gồm màu lục nhạt, đỏ acid và vàng.

Tự họa của Egon Schiele
Tự họa của Egon Schiele

Chân dung tự họa thời kỳ này xuất phát từ những khám phá sự đau đớn tuổi thanh niên - từ Tự họa mặc áo sơ mi (1910), và Tự họa mặc áo gilê lông công (1910) - đến cú điếng người rùng mình về tinh thần của Ngồi khỏa thân (Tự họa) (1910), một thân mình trơn láng như gỗ mang màu sắc rữa hoại, với tứ chi lông lá, bị đặt trôi dạt trong trống rỗng xám xịt mùa đông, như thể một búp bê hung ác tân Gôtích.

Đôi khi, sự tự mê mải bản thân của Schiele dẫn đến việc khuôn mặt của chính ông lảng vảng đâu đó trong chân dung của người khác, với đôi mắt chằm chằm nhợt nhạt, trán xương xẩu và ngón tay dài, bẹt - thực ra là những đặc trưng của chính họa sỹ.

Mùa xuân năm 1912, Schiele bị giam một thời gian ngắn vì lời buộc tội cho một thiếu nữ tiếp xúc với ảnh khiêu dâm. Vụ rắc rối khẳng định tri giác của họa sỹ như một nhà tiên tri bị ngược đãi. “Tôi hy sinh cho những người khác…. Tôi đem những món quà, gửi chúng tới đôi mắt, và không khí lung linh run rẩy”, ông viết cho Roessler năm 1911.

Ông yểm trừ cảm nhận đau đớn giày vò đó trong những tác phẩm như Tự họa như Thánh Sebastian (1914), Tự họa như Thánh (1913) và Nhà tiên tri (tự họa kép với Wally) (1913). Đó là tính tự phụ về ý niệm cần thiết cho một họa sỹ trẻ, người đồng thời phát triển sự tự tin đường bệ với vật chất và ý tưởng.

Năm 1915, khi sắp sửa rời bỏ người tình tận tụy Wally, để đến với hôn thê Edith Harms, Schiele vẽ Cái chết và cô gái đồng trinh, chân dung của chính ông và Wally xiết chặt nhau trong u sầu. Ở đây, Schiele thuần hóa nét cọ hỗn loạn và những màu sắc sulphuric trên những bề mặt hữu cơ mà nét tương phản của chúng hình thành từ sự tăng tiến u buồn đến đỉnh cao trên khuôn mặt hoang tàn của lứa đôi.

Khi từ bỏ nàng Wally người Bôhêmia không cội nguồn, đến với nàng Edith trẻ trung nhu mì từ một gia đình đáng kính trọng, Schiele quay lại những giá trị trưởng giả thời trẻ. Nhưng cuộc hôn nhân báo trước sự chín muồi, điều dẫn đến độ nhạy cảm mới về các chủ đề của ông.

Khi vẽ chân dung Hugo Koller năm 1918, Schiele sử dụng những nét vẽ tự do trong khuôn khổ, màu xanh lơ, xanh dương, xám và tím để miêu tả nhà tư bản công nghiệp như một học giả ôn hòa được nâng niu trong yên bình ở nơi trú chân yêu thích.

Trong vòng vài tháng, cả Schiele và người vợ mang bầu đều qua đời vì bệnh cúm Tây Ban Nha. Một trong những kiệt tác cuối cùng của ông là Gia đình (1918) - một sự chuyển thể hiện đài của Gia đình Thánh, trong đó ông cúi mình phía trên vợ con, những người nương tựa giữa hai chân ông. Lõa thể và dễ bị tổn thương trên một chiếc giường vô danh, ba người giống như những kẻ tị nạn. Trong khi miêu tả, tri giác mạnh mẽ của Schiele gợi ý rằng ông biết mình bất lực, không bảo vệ được gia đình chống lại lịch sử. Định mệnh quanh co của rất nhiều bức tranh có thể khẳng định nỗi sợ hãi của ông.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Những chân dung của Egon Schiele
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO