Nhiều thách thức trong khai thác thuỷ sản
Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Bộ NN và PTNT vừa tổ chức hội nghị bàn các giải pháp chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, điều chỉnh năng lực tàu thuyền khai thác thủy sản. Những thách thức từ giá nhiên liệu tăng cao, chất lượng tàu thuyền khai thác xuống cấp, nguồn lợi thủy sản cạn kiệt đã khiến cho ngành thủy sản đứng trước áp lực buộc phải thay đổi để tồn tại. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của các địa phương hiện nay là tìm kiếm mô hình cộng đồng quản lý nguồn lợi thủy sản bền vững, hướng chuyển đổi, giảm tàu thuyền công suất nhỏ mà không ảnh hưởng đến sinh kế của người dân.
Thách thức
Tính đến hết năm 2007, cả nước có 95.609 tàu hoạt động nghề cá, trong đó tàu khai thác hải sản nội đồng là 10.210 chiếc, tàu khai thác hải sản là 83.250 chiếc, tàu làm công tác dịch vụ hậu cần nghề cá và kiểm ngư là 2.199 chiếc, với tổng công suất máy đạt trên 5,4 triệu CV. Mặc dù phát triển nhanh chóng nhưng nghề khai thác hải sản nước ta vẫn còn mang nặng tính chất của nghề cá quy mô nhỏ. Các tàu công suất máy nhỏ hơn 90 CV chiếm tới 84% tổng số tàu, 88% tổng số lao động hoạt động chủ yếu ở ven bờ. Hầu hết các tàu đánh cá đều được đóng bằng gỗ, các máy tàu được sử dụng phần lớn là máy cũ hoặc dùng các máy ôtô vận tải hạng nặng đã cũ để lắp đặt. Kết quả điều tra các tàu khai thác hải sản xa bờ cho thấy, số tàu lắp máy cũ chiếm tới 88,58% tổng số tàu khai thác xa bờ, trang thiết bị khai thác chưa đầy đủ nên hạn chế hiệu quả khai thác. Mặc dù nước ta có tới 700 cơ sở đóng tàu có khả năng đóng mới 4.000 chiếc/năm và sửa chữa 8.000 chiếc/năm nhưng lại rất thiếu những nhà máy đóng tàu hiện đại để đóng tàu cá bằng vật liệu kim loại hoặc các loại vật liệu mới. Chưa kể, hầu hết các ngư cụ vẫn đang phải nhập khẩu do các cơ sở sản xuất trong nước không đáp ứng được về số lượng cũng như chất lượng.
Một hạn chế khác được đánh giá là cản trở cho quá trình chuyển đổi của ngành thuỷ sản là hạn chế về trình độ nhân lực. Theo thống kê, số lượng lao động khai thác hải sản tăng từ 270.587 người (năm 1999) lên khoảng gần 700.000 người (năm 2007), bình quân mỗi năm tăng 23.155 người. Nhưng học vấn của ngư dân thấp, với 68% chưa tốt nghiệp tiểu học, hơn 20% tốt nghiệp tiểu học, khoảng gần 10% có trình độ trung học cơ sở và 0,65% có bằng ở các trường dạy nghề hoặc đại học. Với trình độ học vấn thấp, ngư dân gặp khó khăn trong việc tiếp thu kỹ thuật mới, nhất là kỹ thuật khai thác xa bờ. Hệ quả tất yếu là dù sản lượng khai thác hải sản liên tục tăng nhưng chất lượng sản phẩm khai thác được thường có kích thước nhỏ, có chất lượng thấp, cá tạp chiếm tỷ lệ cao. Trong khi đó, hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nghề cá vừa nhỏ bé, vừa manh mún khi cả nước chỉ có 75 cảng cá, bến cá, chưa đáp ứng được nhu cầu phục vụ ngành khai thác. Mạng lưới chợ cá còn ở trạng thái đang phát triển, hình thức bán đấu giá ở các chợ cá chưa hình thành. Việc mua bán, tiêu thụ cá ở các chợ cá phần lớn do các tư thương đảm nhiệm, nên hiện tượng “Trúng mùa rớt giá vẫn còn xảy ra’’.
Sự mất cân đối giữa năng lực khai thác và khả năng hiện có của nguồn lợi vùng ven bờ ngày càng tăng. Dẫn đến nguồn lợi ven bờ bị giảm dần, hiệu quả kinh tế của hoạt động khai thác vùng biển ven bờ ngày càng thấp. Trong khi đó, giá nhiên liệu và những chi phí đầu vào cho khai thác tăng không ngừng, đang gây ra những khó khăn lớn cho ngành khai thác hải sản. Hiệu quả kinh tế của các hoạt động khai thác đang giảm dần nên các tàu cá buộc phải tận thu sản phẩm, từ đó dẫn đến giảm sút nguồn lợi thuỷ sản nghiêm trọng hơn.
Hiện thực hóa những giải pháp
Trước những khó khăn của ngành khai thác thuỷ sản, hầu hết các ý kiến của nhiều chuyên gia kinh tế biển đưa ra tại Hội nghị bàn về các giải pháp chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, điều chỉnh năng lực tàu thuyền khai thác thủy sản đều cho rằng, để khai thác hải sản bền vững thì các mô hình quản lý nghề cá dựa vào cộng đồng là giải pháp quan trọng hàng đầu để tổ chức lại hoạt động đánh bắt, khai thác thủy sản đặc biệt ở vùng biển gần bờ.
Mặc dù có sự khác nhau về mặt địa lý, nguồn lợi hải sản, các điều kiện kinh tế xã hội, nhưng các nước trong khu vực Đông Nam Á đều phải đối mặt với những vấn đề bức xúc như nhau trong quá trình phát triển nghề cá. Để phát triển bền vững và quản lý tốt nghề cá, các nước này đã đề ra các biện pháp quản lý chủ yếu như xây dựng hoàn chỉnh hệ thống pháp luật liên quan để hạn chế số lượng tàu thuyền tham gia vào khai thác và quản lý chặt chẽ số lượng tàu cá; Đưa ra những quy định đánh bắt cụ thể ở mỗi vùng biển liên quan đến hạn mức, phương pháp khai thác cũng như mùa, vùng đánh bắt... đặc biệt là phát triển mạnh hoạt động quản lý nghề cá ven bờ dựa vào cộng đồng. Đây là những kinh nghiệm quản lý rất phù hợp với ngành thủy sản Việt Nam do đặc thù hệ thống ngư trường trải rộng, số lượng tàu thuyền lớn và có tới hơn 20% chưa đăng lý, trong khi số lượng thanh tra chuyên ngành thủy sản còn khiêm tốn, chưa đáp ứng yêu cầu.
Tuy nhiên, để có thể triển khai được mô hình này, trước mắt ngành thủy sản cần cải thiện mạng lưới số liệu thống kê, nhân rộng mô hình hợp tác xã trong khai thác, tiêu thụ hải sản từ đó tạo ra cơ cấu nghề khai thác thủy sản hợp lý, thân thiện với môi trường bằng cách: Chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, từ những nghề gây tổn hại lớn đến nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của các loài thủy sản sang nghề ít gây tổn hại đến nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của chúng hoặc những nghề khác ngoài khai thác thủy sản; Chuyển đổi nghề sử dụng nhiều nhiên liệu trong khai thác hải sản sang những nghề ít tiêu hao nhiên liệu hơn. Ngoài ra, các chuyên gia kiến nghị cần phải nhanh chóng ban hành và kiện toàn khả năng giám sát việc thực thi các quy định cụ thể liên quan đến hoạt động khai thác hải sản nói chung, đặc biệt ở vùng ven bờ thông qua các mô hình mạnh, có quy mô cộng đồng về quản lý, khai thác, tiêu thụ các sản phẩm cho ngư dân.
Đình Long