Hệ thống hang động tại Việt Nam chứa đựng nhiều giá trị sinh học độc đáo
Trên thế giới, nghiên cứu đa dạng thực vật trong hệ hang động bước đầu đã được tiến hành từ thế kỷ 18 ở khu vực Azores, Nam Mỹ hay khu vực châu Âu. Tuy nhiên, đến nay, những hiểu biết về đa dạng sinh học hang động nói chung và đa dạng thực vật hang động nói riêng vẫn còn hạn chế. Nghiên cứu về đa dạng thực vật trong hệ hang động bước đầu được quan tâm ở một số nước tại khu vực nhiệt đới châu Á (Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia).
Ở Việt Nam, hệ thống hang động chứa đựng nhiều giá trị sinh học độc đáo. Điều này được thể hiện qua những phát hiện và mô tả gần đây về một số loài động vật mới cho khoa học từ các hang động ở Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu đa dạng thực vật vùng núi đá vôi, các nhà khoa học đã phát hiện và mô tả 2 loài thực vật mới, đặc hữu thuộc họ Tai voi trong hang động ở vùng núi Tây Bắc (Thanh Hóa và Hòa Bình).
Như vậy, khu hệ hang động luôn có tiềm năng phát hiện nhiều loài sinh vật quý hiếm, có giá trị, là cơ sở để nghiên cứu bảo tồn đa dạng sinh học gắn với phát triển kinh tế xã hội. Bước đầu đã có những chương trình điều tra, nghiên cứu về đa dạng của một hay một số nhóm thực vật trong hệ hang động ở Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, chi tiết và hệ thống về tính đa dạng khu hệ thực vật trong hệ thống hang động ở Việt Nam nói chung và ở miền Bắc nói riêng.
Gần đây, hoạt động du lịch sinh thái và tâm linh ở nước ta đã và đang được sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước. Vì vậy, nhiều hệ thống hang động ở Miền Bắc như: Hang Kho Mường (Thanh Hóa), Động Thiên Cung (Hạ Long, Quảng Ninh), Động Hương Tích (Hà Nội), Hang Quân Y (Hải Phòng)… được cải tạo để đáp ứng nhu cầu cho du khách. Bên cạnh sức ép về hoạt động du lịch, quá trình cải tạo đã và đang làm thay đổi hay mất môi trường sống của một số loài thực vật trong hang động, dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng. Hơn nữa, phần lớn thông tin được cung cấp cho du khách là các thông tin về giá trị cảnh quan, địa chất, địa mạo, thiếu thông tin về giá trị đa dạng sinh học nổi bật trong hang động.
Từ thực tế trên, các nhà nghiên cứu thuộc Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam đã thực hiện điều tra, đánh giá tính đa dạng thực vật hang động ở miền Bắc Việt Nam nhằm điều tra thu thập và xác định thành phần loài thực vật, đánh giá đặc điểm sinh học, sinh thái, hiện trạng bảo tồn và giá trị tiềm năng sử dụng của các loài thực vật hang động ở miền Bắc Việt Nam.
Phát hiện và mô tả 3 loài thực vật mới cho khoa học thế giới và bổ sung 6 loài cho khu hệ thực vật Việt Nam
Qua điều tra, các nhà khoa học đã thu thập được 934 mẫu tiêu bản thực vật của 539 số hiệu mẫu vật ở 33 hang động thuộc địa bàn 8 tỉnh của miền Bắc Việt Nam (Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hòa Bình, Sơn La, Ninh Bình, Thanh Hóa). Trong đó, tỷ lệ trung bình số hiệu mẫu/điểm khảo sát ở các tỉnh phía Đông Bắc và Bắc Trung Bộ (Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thanh Hóa) có tỷ lệ trung bình số hiệu mẫu/điểm khảo sát cao hơn nhiều so với các tỉnh Tây Bắc (Hòa Bình, Sơn La). Trong đó, đã phát hiện và mô tả 3 loài mới cho khoa học và bổ sung 6 loài cho khu hệ thực vật Việt Nam.
Đồng thời, nhóm nghiên cứu đã xác định được 337 loài thuộc 142 chi của 63 họ thực vật hang động miền Bắc. Trong đó, nhóm Dương xỉ gồm 53 loài (chiếm 15,73%), thuộc 22 chi và 14 họ; nhóm Hạt kín đa dạng hơn với 284 loài (chiếm 84,27%), thuộc 120 chi của 49 họ.
Trong nghiên cứu, tình trạng nguy cấp của 25 loài thực vật hang động ở miền Bắc đã được xác định nằm trong Danh lục Đỏ của IUCN (2023), 4 loài được liệt kê trong Sách đỏ Việt Nam (2007), 5 loài được liệt kê trong NĐ84/2021/NĐ-CP. Từ kết quả này, các nhà khoa học bước đầu đã đánh giá tình trạng nguy cấp và hiện trạng bảo tồn cho 6 loài thực vật hang động mới được mô tả gần đây. Qua quá trình điều tra, nhóm đã xác định được 221 loài có giá trị sử dụng, trong đó có 107 loài sử dụng làm cảnh (chiếm 31,75%), 82 loài sử dụng làm thuốc (chiếm 24,33%), 40 loài là nguồn gen quý hiếm (chiếm 11,87%), 15 loài sử dụng lấy gỗ củi (chiếm 4,45%), 14 loài làm lương thực, thực phẩm (chiếm 4,15%), 4 loài sử dụng làm dây buộc (chiếm 1,19%).
PGS.TS. Đỗ Văn Trường và nhóm của ông đã công bố 6 bài báo khoa học trên tạp chí khoa học quốc tế thuộc danh mục SCI-E và 2 bài báo trên tạp chí quốc gia và nhiệm vụ được Viện Hàn lâm nghiệm thu đánh giá xếp loại Xuất sắc. Với những thành công bước đầu, các nhà khoa học mong muốn tiếp tục điều tra, nghiên cứu, phân tích và định loại các mẫu đã thu thập nhưng chưa đủ căn cứ để định loại đến loài. Đồng thời, cần tiếp tục điều tra bổ sung thành phần loài thực vật hang động ở khu vực núi đá vôi ở khu vực miền Trung Việt Nam.