Nhiều chuyện lạ lùng
Truyện ngắn của Carol Shields

03/04/2008 00:00

Carol Shields sinh năm 1935 tại Oak Park, Illinois, ngoại ô Chicago, Mỹ. Bà chuyển đến Canada năm 22 tuổi và trở thành công dân Canada.

      Hiện tại, Carol Shileds đang sống và làm việc tại Winnipeg. Tác phẩm nổi tiếng nhất của bà là Nhật ký trên đá (The stone diaries) đã đoạt giải thưởng Pulitzer dành cho thể loại tiểu thuyết năm 1995, giải thưởng của Hiệp hội Phê bình Sách Quốc gia Mỹ và giải thưởng của Thống chế Canada. Các tác phẩm khác của bà được biết đến nhiều là Various Miracles (Nhiều chuyện lạ lùng), Happenstance, The republic of Love, Swann, The orange fish...

      Năm nay có nhiều chuyện lạ lùng xảy ra mà chưa hề được ghi chép lại. 
      Ví dụ: Một buổi sáng mùng 3 tháng giêng, có bảy người phụ nữ đến mua hàng ở quầy bán đồ lót phụ nữ tại Paolo Alto, Carlifornia và thật tình cờ, những người theo đạo Thiên chúa trong số họ đều tên là Emily.
      Ví dụ: Ngày 16 tháng 2, bốn người lạ (gồm ba người đàn ông và một người đàn bà) ngồi im lặng đọc báo ở hàng ghế sau của chuyến xe bus số 10 ở Cincinnati, Ohio. Mỗi người trong số họ đều đang đọc một tờ Smiley’s People bằng giấy mỏng.
      Ngày 30 tháng 3, một người vận hành máy tiện ở một làng miền núi Marôc mơ thấy một quả chanh rơi từ trên cây xuống đúng vào miệng anh ta, làm anh ta nghẹt thở và chết. Anh ta mở mắt, sung sướng tột độ vì mình vẫn còn sống và ôm chầm lấy vợ đang ngáy đều đều bên cạnh. Người vợ cử động, chấm dứt giấc mơ đang dang dở một cách miễn cưỡng. Trong giấc mơ đó, có một cây chanh bắt rễ trong bụng cô, những chồi non đang nhú ra từ những nhánh cây. Từ trong tất cả các mạch máu của cô, lá, hoa và quả rung lắc ào ào khiến cô run rẩy trong giấc ngủ với niềm vui sướng tột độ. Người chồng nhẹ nhàng trở dậy và bật cây đèn dầu lên để có thể nhìn thấy mặt cô. Có vẻ với anh ta, từ trước đến nay, chưa bao giờ anh ta thực sự ngắm nhìn vợ mình và anh ta cảm thấy thật ngớ ngẩn khi mình chính là nguồn sống của cuộc đời cô. Giờ cô đang nằm ngủ, đang mơ, khuôn mặt thật lộng lẫy. Điều mà anh ta nhìn thấy khiến anh ta lo sợ cho cuộc đời của mình, đó là niềm hạnh phúc mãnh liệt được che giấu khéo léo sau khuôn mặt đang say ngủ.
      Ngày 11 tháng 5, ở thành phố Exeter phía Nam nước Anh, có năm cô gái (tuổi từ mười lăm đến mười bảy) chạy ngang qua một sân chơi vào lúc chín giờ sáng, đó là một phần trong chương trình giáo dục thể chất của họ. Họ dừng lại một lúc khi nhìn thấy một con vẹt đã chết nằm trên lối đi rộng rải sỏi. Bộ lông của nó màu xanh, gáy và đầu màu vàng. Ngay sau đó, chú vẹt thuộc giống Amazonaochrocephala này được cô giáo dạy thể dục của các cô gái nhận dạng. Cảnh sát xác nhận điều đó và khám phá ra rằng chú vẹt này đã thoát ra từ ô cửa sổ mở của ngôi nhà thuộc về ông bà Ramsay, ông bà khẳng định mình đã nuôi chú vẹt này (tên nó là Miguel) suốt hai mươi hai năm. Thực tế là chú vẹt này đã hai mươi lăm tuổi rồi, là một con trong đôi vẹt được rao bán tại một phiên chợ tự do ở Marseilles, mùa xuân năm 1958. Người anh em sinh đôi của Miguel được bán cho một ca sỹ giọng nữ cao người Italy, cô nuôi nó được mười năm, sau đó tặng lại cho cháu gái Francesca, một nghệ sỹ violin bắt đầu sự nghiệp trong một dàn nhạc Thính phòng Hà Lan, sau đó chuyển sang dàn nhạc Giao hưởng Chicago. Ngày 11 tháng 5, Francesca bị đánh thức bởi tiếng ho của chú vẹt trong ngôi nhà của mình ở River Forest (tên nó là Pete, đôi khi là Pietro). Cô cho nó một đĩa sữa đặc thay cho lạc trộn yến mạch như mọi khi và gọi điện thông báo rằng cô không thể đến buổi luyện tập ngày hôm đó. Tiếng ho ngày càng dữ dội. Cô tìm tên một bác sỹ thú y ở cuốn sổ tay vàng và chuẩn bị gọi điện cho ông ta thì chú vẹt ngã xuống và chết trong lồng. Trước đó chỉ vài giây, Francesca nghe thấy chú ta há mỏ và đánh vần một câu gì đó, cô tin là những từ giống như “Ca ne fait rien”.
      Ngày 26 tháng 8, một người đàn ông tên là Carl Hallsbury ở Billings, Montana bị đánh thức bởi một tiếng động lớn. “Lạy chúa tôi, có trộm”, vợ anh, Majorie nói. Họ lắng nghe, nhưng khi không có thêm bất kỳ tiếng động nào nữa, họ lại chìm vào giấc ngủ. Sáng ra, họ phát hiện ra bức tranh màu nước mà họ yêu thích - một bức tranh vẽ cảnh nông thôn đầy màu khói nhạt với những hàng cây và một con đường đầy gió, một chiếc cầu hình mái vòm - đã biến mất khỏi bức tường phòng khách. Hóa ra nó rơi xuống cái lò sưởi bằng gang, sau đó lại nẩy lên và yên vị tại một vị trí an toàn ở ngay giữa tấm thảm phòng khách. Khi Carl tìm hiểu nguyên nhân, anh nhận ra cái móc treo tranh đã rơi khỏi tường. Anh trát lại bức tường bằng thạch cao, để nó khô và đặt vào đó một cái móc mới. Khi làm, anh nhớ làm thế nào đã có được bức tranh đó. Anh đã đi ngang qua nó khi bức tranh được treo trong một ngôi nhà hoang ở thành phố St. Brieuc của Pháp, nơi anh và những người khác thuộc trung đội Bộ binh đóng quân suốt những tháng cuối cùng của chiến tranh. Bức tranh khiến anh chú ý, những đường nét đơn giản và những mảng màu đầy cá tính. Đối với anh, chiếc cầu bằng đá đã thu hút sự chú ý từ khi anh được đào tạo thành một kỹ sư xây dựng dân dụng (năm 1939). Khi có lệnh di chuyển vào cuối năm 1944, anh mang theo bức tranh màu nước và bỏ nó vào trong ba lô, vừa vặn xinh xắn, và dường như việc ăn trộm của anh đã được tha thứ bởi chính sự vừa vặn xinh xắn ấy. Anh không phải một tên trộm chuyên nghiệp nhưng anh đã hiểu ra rằng cuộc sống là nghệ thuật ứng biến. Những người lính khác đã mang về nhà những chiếc mũ bảo hiểm Đức, những vỏ đạn và các loại cờ khác nhau còn bức tranh là món quà duy nhất của Carl. Và vợ anh, Marjorie, là người duy nhất trên thế giới này biết đó là đồ ăn cắp. Cô và Carl thuộc về kiểu người tin rằng không nên tồn tại một bí mật nào giữa vợ và chồng. Cả hai người, Marjorie cũng như Carl, có một mối liên hệ tinh thần sâu sắc với bức tranh mặc dù họ không tin đó là tác phẩm của một họa sỹ tài năng.
      Thực ra, đó là bức tranh do một cậu bé mười hai tuổi tên là Pierre Renaud vẽ, cậu sống trong ngôi nhà ở St. Brieuc đến tận năm 1943. Người ta kể rằng khi còn nhỏ, cậu bé được tặng một món quà để vẽ và tô màu, đúng hơn là cậu được tặng món quà đó để mô phỏng, sao chép. Bức tranh về cây cầu của cậu được sao chép từ tấm bưu thiếp mà cha cậu gửi cho cậu từ Burgundy, nơi ông đến để thực hiện công việc kinh doanh. Cậu hạnh phúc tột độ khi nhận được tấm thiếp từ cha mẹ, những người lạnh lùng và kiên định, rất ít thời gian dành cho con cái. Việc sao chép lại tấm bưu thiếp bằng màu nước là một hành động của lòng tôn kính đầy cảm động, một cách đánh thức tình yêu thương của cha cậu. 
      Lớn lên, cậu không trở thành họa sỹ mà là một thành viên trong sự nghiệp kinh doanh các sản phẩm bằng len của gia đình. Vào dịp cuối hè, anh thường thích đi về phương Nam hưởng thụ ánh nắng mặt trời và rượu ngon. Một buổi tối ngày 26 tháng 8, anh và Jean-Louis, người bạn đồng hành trong nhiều năm gặp nhau trên một cây cầu đá nhỏ không xa Tournus. “Chính là nó!”, anh reo lên vui sướng, vẫy vẫy cánh tay như một cậu bé mà không hề bận tâm tại sao mình lại nói ra điều đó, “chính là nó!”. Jean-Louis cười với anh, mọi người đều biết Pierre có tinh thần hoài cổ. 
      “Nhưng tôi nhớ cậu đã nói là cậu chưa bao giờ đến đây?”, anh bạn nói. 
      “Đó là sự thật”, Pierre nói, “Cậu nói đúng. Nhưng mình cảm thấy chính là nơi đây” - cậu chỉ vào tim mình - “nơi mình đã đến trước kia”.
      “Có thể đó là một cuộc đời khác”, Jean-Louis trêu chọc anh.
      Pierre lắc đầu, “Không, không, không”, rồi lại đồng tình, “Ừ, cũng có thể!”
      Sau đó, hai người đứng lại vài phút trên cầu, nhìn xuống dòng nước và theo đuổi những suy nghĩ riêng.
      Ngày 31 tháng 10, Camella Laporta, một nhà văn sinh ở Cuba, giờ là công dân Canada, mang bản thảo tiểu thuyết mới của cô đến nhà xuất bản ở Toronto trên phố Front. Cô rất lo lắng vì nhà xuất bản đã chỉ trích bản thảo đầu tiên của cô, họ cho rằng cô quá lạm dụng yếu tố ngẫu nhiên như một kỹ xảo trong sáng tác. Camella đã dành nhiều tháng vào việc chỉnh sửa. Cô phá vỡ những đoạn nối kết chưa hoàn hảo rồi ghép lại tình tiết này vào tình tiết khác, sau đó với sự khổ công đầy tinh xảo như một bác sỹ giải phẫu thần kinh, cô tạo ra những mạch kết nối khác. Giờ đây, cuốn tiểu thuyết đã hoàn thành, đầy những vi mạch giăng mắc phức tạp. Dù sao, sự tình cờ hay ngẫu nhiên đã được sắp xếp lại, tạo ra tính logic, khoa học và đầy nguyên cớ.
      Khi Camella đang đứng đợi xe bus ở góc đường nối giữa phố College và Spadina vào một ngày đầy gió, một trận gió mạnh đã cuốn đi tập bản thảo từ tay cô. Chỉ trong giây lát, những trang bản thảo đánh máy màu vàng bị ném vào không trung, xoay tròn trong một điệu vũ chóng mặt rồi rơi xuống lòng đường đông nghịt. Giao thông bị chùng lại. Một chiếc xe bus phanh gấp nghiêng ngả. Những người đi bộ đã nhiệt tình giúp đỡ, họ dừng lại và bắt lấy những trang giấy đang lơ lửng trong không trung. Vài trang khác được nhặt lên từ rãnh nước, trên đống lá vàng ẩm ướt, một tờ được tìm thấy trên tấm kính chắn gió của một chiếc Pontiac đang đậu cách đó một đoạn đường. Một tờ khác dính chặt vào cái cột đèn, một tờ nữa đang bị một chiếc xe taxi cuốn đi, trên mặt giấy đầy những vệt đen hình lốp xe. Từ mọi hướng, vừa cúi đầu tránh gió, mọi người vừa chạy đến bên Camella và đem cho cô những trang bản thảo bị tung tán. “Thật điên rồ! Điên rồ!”, cô kêu lên trong tiếng gió đang gào thét.
      Khi cô đến nhà xuất bản, vị giám đốc nhìn tập bản thảo của cô và nói: “Lạy Chúa tối cao, Camella, đừng nói với tôi rằng cô cũng theo xu hướng hậu hiện đại như những người khác và không còn tin vào logic của việc đánh số trang nữa”. Camella giải thích về trận gió quỷ quái và hai người bắt đầu sắp xếp lại các trang theo đúng thứ tự của nó. Thật ngạc nhiên, chỉ thiếu mất duy nhất một trang, chính là trang mà Camella khẳng định rằng quan trọng nhất, cần thiết nhất, nó giải đáp mọi thứ. Cô đã phải cố gắng rất nhiều để làm cho nó hấp dẫn nhất. “Hừm”, vị giám đốc nói - giờ đã là cuối chiều và họ đang ngồi nhấm nháp trà ở nhà xuất bản, “tôi thực sự tin rằng cuốn tiểu thuyết của cô sẽ hay hơn rất nhiều ngay cả khi không có trang bị mất. Đôi khi, ta nên để mọi thứ trở nên kỳ lạ và là hiện thân của chính nó chứ không phải bất cứ cái gì khác”.
      Trang bản thảo bị thiếu là trang số 46, bị thổi tới góc phố College, vào một gian hàng rau và hoa quả đang mở cửa, nơi có một người phụ nữ trẻ, mặc áo choàng màu đỏ đang mua một cân bí ngô xanh. Cô rất xinh đẹp, dù đó là vẻ đẹp khác thường và cô cũng thông minh, một diễn viên đã nghỉ diễn được vài tháng. Để sảng khoái tinh thần và làm cho mình thêm hấp dẫn, cô đã quyết định làm một mẻ bánh bột bí ngô trộn bơ nướng. Khi cô đang lấy tiền trả lại từ máy tính tiền tự động thì trang giấy màu vàng bay tới bậc thềm và rơi xuống chân cô.
      Cô là kiểu người say mê đọc tất cả mọi thứ, tiểu thuyết Nam Mỹ, truyện dân gian Nga, những bài thơ Ba Tư, những mẩu quảng cáo trên đường, cột thông tin cá nhân trên tờ The Globe and Mail, thậm chí cả những chỉ dẫn và lời cảnh báo trên các bình cứu hỏa công cộng. Những gì được in ra là phương tiện để cô vừa xâm nhập vừa trốn tránh thế giới này. Một cách tự nhiên, cô cúi xuống và nhặt trang giấy màu vàng lên đọc.
      Cô đọc: Một người phụ nữ mặc áo choàng đỏ đang đứng ở một quầy hàng rau quả để mua một cân bí ngô xanh. Cô ấy đẹp, dù đó là vẻ đẹp không thông thường và thật tình cờ, cô là một diễn viên, người mà...

 Thi Hà dịch

    Nổi bật
        Mới nhất
        Nhiều chuyện lạ lùng<br><i>Truyện ngắn của Carol Shields </i>
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO