Nhà văn của tình người

Minh Minh 25/06/2009 00:00

4 thập kỷ sự nghiệp, 9 tiểu thuyết, nội dung xuyên suốt trong tác phẩm của nữ văn sĩ da màu người Mỹ đoạt giải Nobel Văn học Toni Morrison chính là tình người. Bà đặc biệt viết về đời sống của những người da màu dưới chế độ nô lệ ở nước Mỹ ngày xưa và nạn phân biệt chủng tộc ngày nay.

Nhà văn của tình người ảnh 1

Tiếng nói của lương tâm

Lối kể chuyện giản dị, chân thực, nhưng văn phong tinh tế, lôi cuốn, ngay trong cuốn tiểu thuyết đầu tay The Bluest Eye (Mắt biếc, 1970), bậc thầy tản văn Toni Morrison đã mô tả cuộc sống nội tâm của những cô gái da màu nghèo khổ lớn lên ở thành phố quê hương của bà là Lorain, bang Ohio. Cuốn tiểu thuyết thứ hai Sula (1973) là câu chuyện kể về tình bạn nữ, một phần được truyền cảm hứng từ chính cuộc sống của nữ văn sĩ trong vai trò một người mẹ đơn độc nuôi con. Sula được đánh giá cao ở tính hài hước, nghệ thuật đối thoại, nghệ thuật xây dựng nhân vật và đặc biệt là chân dung của một lớp người “dưới đáy” - cộng đồng người da đen ở Medallion (bang Ohio). Nói cách khác, Sula là câu chuyện hiếm thấy, đầy cảm động về con người.

Ở tiểu thuyết ra đời năm 1987, Beloved (Đứa con yêu dấu, có hai bản dịch tiếng Việt là Thương và Người yêu dấu), tác giả muốn đề cập những vấn đề lớn hơn như diện mạo nước Mỹ dưới chế độ nô lệ, tình mẫu tử và tình người. Tác phẩm kể về cuộc đấu tranh sinh tồn của Sethe cùng với cô con gái Denver sau khi thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Một ngày, một thiếu nữ xuất hiện tại ngôi nhà của hai mẹ con, tự xưng tên là “Beloved”. Sethe tin rằng đây chính là đứa con nhỏ xấu số mà cô buộc lòng phải giết chết từ lúc hai tuổi để đánh đổi sự sống cho mình và Denver. Cuốn tiểu thuyết lấy nguyên mẫu là một phụ nữ da đen tên là Margaret Garner.

Đến tiểu thuyết Love (Ái tình, 2003), nghe tên có vẻ sáo, song theo lời Morrison, là cuốn sách “mạnh mẽ, thậm chí đặc biệt, độc đáo nhất về xúc cảm của con người”. Sự hòa trộn giữa những bí mật giữ lâu cất kỹ với sức mạnh hủy diệt - cứu chuộc của tình ái là cốt tủy trong các tác phẩm bậc thầy của Morrison như Song of Solomon (Bài ca của Solomon, 1977) và Đứa con yêu dấu. Ái tình kể về thời kỳ phân biệt chủng tộc, về khu nghỉ mát bên bờ biển của người da đen, về đám cưới của người chủ giảo hoạt với cô bé 11 tuổi, về được và mất trong phong trào đòi quyền bình đẳng, mối ràng buộc yêu-ghét giữa hai người đàn bà.

Tiểu thuyết mới nhất A Mercy (Lòng nhân từ, 11.2008) có bối cảnh từ thế kỷ XVII, thời gian mà nước Mỹ mới chỉ bắt đầu tin rằng chế độ nô lệ là một cỗ máy kinh tế. Tất cả những nhân vật trung tâm trong Lòng nhân từ đều là những kẻ côi cút, bị cha mẹ bỏ rơi hay từ bỏ cha mẹ. Jacob Vaark là một thanh niên Anh gốc Hà Lan năm 1682 đã theo đoàn người đi tìm Tân Thế Giới trên một chiếc tàu vượt Đại Tây Dương. Khai khẩn đất hoang, lạc quan hy vọng sẽ làm giàu, Jacob đăng báo ở Anh quốc và tìm được một người vợ đảm đang - Rebekka. Nhưng cả ba người con trai Rebekka sinh ra đều chết yểu khi mới chào đời và đứa con gái út cũng bị ngựa đá chết khi chưa tròn 5 tuổi. Trang trại thất bát, Jacob lên đường đi đòi nợ một chủ đồn điền khác, nhưng người này không có tiền trả, nài nỉ gán một thiếu nữ nô lệ của đồn điền là Florens để trừ nợ. Thấy cô bé đói ăn gầy gò rách rưới, Jacob đành nhận đem về nuôi. Mẹ của Florens nhìn thấy ở Jacob một tấm lòng nhân từ nên hy vọng con gái mình sẽ có tương lai chấm dứt kiếp nô lệ... Hành vi đáng biết ơn này đã được Morrison dùng làm tên cho tiểu thuyết.

Mặc dù Toni Morrison trượt giải thưởng văn học Orange 2009, song qua những lời nói của những nhân vật nữ trong Lòng nhân từ, người ta thấy bà xứng danh là tiếng nói của lương tâm, cất cao giọng bênh vực thanh thiếu niên và phụ nữ da màu một cách can đảm và mạnh mẽ.

“Đứa con yêu dấu” 20 năm trở về

Toni Morrison tên thật là Chloe Anthony Wofford, sinh năm 1931. Ngay từ nhỏ, Morrison đã ham mê đọc sách như nguồn vui. Từng nếm trải bao nhọc nhằn, cay đắng của thời kỳ nội chiến, nhưng tâm hồn bà vẫn phong phú và giàu cảm xúc. Bà từng tâm sự rằng, tuy cuộc hôn nhân của bà với Harold Morrison - kiến trúc sư người Jamaica, chỉ kéo dài sáu năm, nhưng chính nhờ có hai cậu con trai mà bà đã trở thành cây bút nổi tiếng. “Nhiều người nói rằng họ không có thời gian để viết khi có con nhỏ, nhưng với tôi thì ngược lại. Tôi chẳng viết được bất cứ điều gì khi chưa có con. Các con mang lại cho tôi những áng văn đó”.

Toni Morrison bắt đầu được đông đảo độc giả biết đến từ Sula, cuốn sách đã giúp bà lọt vào vòng đề cử Giải thưởng Sách Quốc gia dành cho thể loại tiểu thuyết. Nhưng Đứa con yêu dấu mới thực sự đưa Morrison trở thành tác giả ăn khách, chủ nhân của một loạt giải thưởng. Trước đây, Morrison không bao giờ muốn viết về chế độ nô lệ vì cho rằng chủ đề đó quá lớn. Bà nói: “Đối với tôi, bước vào màn đời đó giống như lao vào Đại Tây Dương bằng một chiếc bè gỗ”. Nhưng sau khi tung ra cuốn Đứa con yêu dấu, nữ văn sĩ nhận thấy rằng điều cốt yếu để viết về chủ đề nêu trên là xoáy vào từng nhân vật hơn là 300 năm lịch sử. Hơn nữa, khi viết Đứa con yêu dấu, bà cũng không thể ngờ tận 20 năm sau tiểu thuyết của bà vẫn còn sức sống mạnh mẽ trong lòng người đọc. Cùng với Đứa con yêu dấu, bà đã nhận được giải thưởng Pulitzer cho tiểu thuyết hay nhất năm 1988, giải National Book của Hiệp hội các nhà phê bình Mỹ và vinh dự hơn cả là giải Nobel Văn học năm 1993, để rồi cuộc bình chọn đầu năm 2007 do Thời báo New York thực hiện đã tôn vinh tác phẩm này là “cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất của nền văn học Mỹ 25 năm qua”.

Ở độ tuổi 70, Toni Morrison vẫn “nổi như cồn” và là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Mỹ. Năm 2004, bà cũng giành giải thưởng Image ghi nhận những thành tựu nổi bật của người Mỹ da đen và các dân tộc da màu khác trong lĩnh vực văn hóa, truyền thông với tiểu thuyết Ái tình.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Nhà văn của tình người
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO