Người thợ bạc ở Phố Cũ (Phần 1)
Truyện ngắn của Ma Văn Kháng

25/08/2010 00:00

>>Người thợ bạc ở Phố Cũ (Phần cuối)

05-nguoi-tho-23710-300.jpg

Phố Cũ thuộc trấn Pa Kha vùng cao biên giới tỉnh Lao Cai. Ở đó, từ mấy năm nay, các tay thợ kỳ tài thuộc các bộ tộc Mông - Dao trong huyện đã tụ họp lại với nhau lập ra một hợp tác xã thủ công nghiệp tên gọi: Rèn - Đúc. Nghề gì thì cần quảng cáo, chứ cái nghề này thì chẳng cần. Biển tên giới thiệu bằng sao được ngọn lửa vàng đỏ bốc lên phần phật tới gần cái mái lợp tôn lênh khênh như cái minh tinh! Tiếng ai quảng cáo to bằng lời búa tạ đập choang choang vang động!

Suốt ngày cái góc phố già nua cũ kỹ ấy thình thịch, ầm ầm tiếng búa đe, tấp nập người ngựa vào ra. Người Mông đến mua lưỡi cày nương, mua đinh móng ngựa. Người Hà Nhì tới đổi dao, đánh cuốc. Ánh lửa nhấp nhoáng như cháy trên những múi thịt đỏ hồng của những bác thợ rèn người Dao vốn có nghề rèn dao súng cổ truyền. Những người thợ đúc thuộc bộ tộc Mông có vóc dáng chắc nịch, đẹp như những khuôn hình tượng đài dũng sĩ, nổi bật bên những lò nấu gang cháy đỏ màu da cam rực rỡ.

Nhưng, cái giai điệu sôi động, hùng tráng, cuồn cuộn lôi kéo con người vào một cuộc sống mạnh mẽ này, vẫn chưa phải là toàn bộ âm điệu nơi đây. Cuộc sống còn một hình thái khác, còn một dòng đời khác, chẳng cháy bỏng xô bồ như dòng gang đúc, mà êm đềm, tĩnh tại, thậm chí âm thầm, đơn lẻ. Hợp tác xã này còn một nghề nữa là nghề thợ bạc. Nghề này bé nhỏ quá, và chỉ có mỗi một ông già, thành ra nó bị nghề rèn đúc nuốt chửng, ngay từ cái tên nó cũng không tồn tại trong danh hiệu đăng ký ở phòng thủ công nghiệp huyện.

Ông thợ bạc đã già, lại bé nhỏ. Cạnh những thân hình lực lưỡng bên ánh lửa đẹp như thiên thần, ông già thợ bạc bé nhỏ, còm cõi như một chú quạ già vào mùa đông giá.

Ông già ngồi ở một góc khuất nẻo, trong cái phân xưởng rộng lợp tôn, được che chắn bằng mấy tấm liếp mỏng lưng lửng vai người. Cái góc chỉ rộng mỗi chiều độ ba bước chân. Nhưng, cái góc tí hon này cũng chứa đủ một giang san. Ông cũng có đồ nghề dụng cụ và bễ lò. Khác chăng là lò của ông mỗi lần cháy chỉ cần có vài hòn than hoa thôi. Trong khi cạnh ông, người ta dùng ki lô, tạ, tấn để đo lường thì ông dùng cái cân tiểu ly để tính từng ly từng lai. Bên kia là búa tạ, là thanh sắt to như đường ray tàu hỏa thì bên này cái gì cũng tí xíu chỉ nằm gọn trong bàn tay. Cái âu nấu bạc là cái chén sứ. Bàn vuốt bạc nhỏ bằng cái lược. Hòm đồ nghề của ông lớn xác cũng chỉ là cái tráp. Trong đó, một cái hộp nhỏ chỉ bằng bao thuốc lá đựng có tới mấy chục cái những là đục, giũa, đột, dùi, khoan. Riêng đục thì đã có: đục tròn, đục bằng, đục mang cá, đục lòng máng, đục bán nguyệt. Cái đại bố thì cũng chỉ bằng đầu chiếc đũa, rồi sắp hàng theo chiều nhỏ dần, phải hơn chục cái nữa mới tới cái nhỏ nhất chỉ bằng cái mũi kim. Cái nào cái ấy cũng chỉ dài bằng ngón tay, mũi sáng bóng, chuôi cán lên nước nhanh nhánh và tòe tòe ở đầu chóp, vì đã trải qua một đời làm việc không ngưng nghỉ.

Trong cái tráp ấy còn có một cuốn hóa đơn. Và một cái khay đựng đồ bạc cũ của khách hàng. Chà, cái khay bạc, cả một sưu tập đồ trang sức, vật hộ thân của bao thế hệ con người! Vòng cổ, vòng tay, khuyên, hộp trầu cau, hoa tai, khuy áo... Tất cả đều đã sứt sát, xin xỉn và đủ hình đủ kiểu. Hoa tai thì kiểu: phù dung, cánh bèo, cúc chỉ xe, tai chuột, lục lăng. Nhẫn thì nhẫn kiểu nơ, kiểu giác trũng, kiểu chạm nổi. Khuyên thì khuyên trơn, khuyên mặt trăng, khuyên quả bầu. Đặc sắc nhất có lẽ là những chiếc khóa bảo mệnh, những cái lắc, những dây xích, cái hình bầu dục, cái hình chữ nhật, cái hình vuông chạm khắc chữ Phúc kiểu triện. Ôi! Hạnh phúc, cái ước ao muôn thuở của loài người!

Từ cái đống cũ kỹ, han gỉ ấy, ông già phải nấu, phải chuốt, phải đánh lại những nhẫn, vòng, kiềng... mới. Công việc khiến ông chẳng lúc nào nghỉ ngơi, nhất là vào những tháng mùa thu này. Mùa thu trên vùng cao, trời xanh thắm thiết và bắp ngô phô hàng hạt vàng ửng đỏ trên nương. Mùa thu khơi gợi cảm hứng về cái đẹp. Mùa thu tĩnh lặng phản chiếu cái đời sống con người xem ra đã yên hàn, no ấm được phần nào.

 Là bởi còn đói khổ, loạn lạc, nhiễu nhương thì con người ta còn tâm sức đâu mà lo sắm sửa vàng bạc, điểm tô trau chuốt cho mình? Gần sáu chục năm hành nghề này, ông lão Chư người Xạ Phang thợ bạc đã nhận ra một điều chí thú: nghề ông, nghề của thời bình, của sự yên hàn, phong đăng hòa cốc, tình yêu đời và khát vọng sung sướng của con người. Còn như trái lại thì nghề của ông hết đất. Hoặc không hết đất thì cũng co hẹp lại; bởi vì tất nhiên là còn con người thì dẫu có cay cực muôn phần, con người cũng vẫn còn hy vọng, còn có lúc muốn làm đẹp mình và gắng gỏi để đạt được hạnh phúc. Ông lão Chư làm thợ bạc ở phố này từ thời hỗn loạn nhất của lịch sử hiện đại: năm bốn mươi nhăm. Trong vòng chưa đầy năm, phố xá thay liền mấy sắc cờ: Pháp, Nhật, Tầu Tưởng... Rồi Chí Thắng, rồi Quốc Dân đảng. Sắc cờ nào thì cũng được ít ngày. Cũng như lúc đầu thì tưởng là nén bạc thật. Sau rốt lại hóa ra bạc giả, sắc cờ nào thì ông cũng lo nơm nớp: các đồ hàng quý giá khách đặt giữ trong nhà bao lần khóa cho vừa?

Vào tháng này thì hình như ông lão yên dạ với công việc của mình. Chiến tranh biên giới đã qua, giờ chỉ còn ngấm ngầm và việc làm ăn đã trở lại nếp xưa. Hoa tai, nhẫn, vòng, lúc loạn ly phải tháo ra, cất đi, nay lại được trở lại vị trí làm đẹp làm sang cho con người rồi. Làm sao, có thể quan niệm được, rằng một thiếu nữ lại không có chí ít là một cái nhẫn bạc, một đôi hoa tai vàng? Làm sao một đứa trẻ trên cái mũ hoa của nó lại không có mấy quả lục lạc? Hạt bạc đính trên mũ của bà người Phù Lá. Vòng gió trên tay người con gái Tày. Còn trên cổ trắng nõn của phụ nữ Mông là cả một xấp kiềng bạc, chuốt kỹ sáng choang. Bạc là giàu sang, phú quý, bạc biểu hiện giá trị của người. Bạc còn là thần hộ mệnh con người nữa kia. Chẳng phải nó là thứ thuốc trường sinh bất tử các đạo sĩ Tàu luyện ra để dâng hiến các vị vua chúa ngày xưa đâu. Nó là cái khóa, cái xích đeo ở cổ con người để giữ hồn, trừ ma. Nó như cái vuốt hổ trấn yên ma quái, nó đuổi gió độc, nó xua ro rủi. Nó là niềm vui, niềm tin, niềm ao ước của con người.

Mắt đeo cái kính mắt tròn gọng đồng hồ, râu ria tóc bạc phênh phếch như mạ một lớp bạc, bị mưa gió ăn mòn, ông lão Chư đã hơn nửa thế kỷ ngày qua ngày cúi gò lưng tôm, làm cái công việc tô điểm cho con người, đem lại niềm vui sống cho con người. Ông là tác giả của tất cả những đồ trang sức trong vùng. Đôi bàn tay ông giờ đã nhăn nheo và đóng thành chai vẩy rồi, nhưng những sản phẩm từ đôi tay ông làm ra thì vẫn xinh xắn bóng bẩy và xem ra còn tinh xảo, óng chuốt hơn xưa nhiều.

*

Chiều thu ấy mưa sụt sùi. Bên cái lò rèn, lò đúc huỳnh huỵch, ồn ào rừng rực hơi lửa, ông lão Chư ngồi lạch tạch gõ cái búa nhỏ, chạm những nét hoa văn trên mấy mảnh bạc. Ông gò lưng, ép ngực liền một hơi dài và tưởng là sẽ còn mải mê thì bỗng dưng như chợt phát hiện ra điều vô lý gì đó, liền thẳng người, thần mặt. Lát sau, ông ấn cái gọng kính vào sát mắt, mở tráp lôi cuốn hóa đơn, loạt soạt giở, chăm chú nhìn, lẩm nhẩm đọc, rồi thở một hơi dài kín đáo. Buồn bã, ông lăng cái mảnh bạc đang chạm dở vào đống đồ cũ của khách hàng. Tên người đặt hàng ông nhớ rõ rành là Giàng Thao Ly, thế mà ông lại chạm thành Giàng Tráng Ly. Thế là lại phải mất công nấu, dát, cắt và chạm lại rồi! Ông cúi tìm mảnh bạc khác, phải làm lại cái khác vậy chứ biết làm thế nào bây giờ. Cái chạm nhỏ tí bị cái búa nhỉnh hơn tí chút thúc đuôi, lại tạch tạch đều đều. Ông lại mải miết, nhưng quái, vào lúc ông như kẻ quên mình, ông bỗng ngừng phắt công việc và ngẩn người. Người thợ kỳ tài bằng linh cảm tinh tế lại đã nhận ra một sơ suất li ti của mình. Cái khóa khách đặt yêu cầu ông chỉ khắc một nét viền, thế mà ông lại đi hai đường viền. Công cốc. Nhưng không phải chỉ là thế. Đáng ngại hơn là, chẳng lẽ ông đã trở nên lú lẫn rồi, không có khả năng đeo đuổi cái nghề tài hoa và phúc đức này nữa rồi hay sao?

Ngẫm nghĩ một lúc ông mới nhận ra là không phải vậy. May quá chỉ là ông không chế ngự được cảm xúc của ông mà thôi. Quái lạ, thì ra ở tuổi già, con người cũng có thể phấn hứng mãnh liệt chẳng kém gì ở tuổi trẻ cả. Có khi lại còn hơn nữa. Nhất là trước những sự tri ân và kính trọng. Càng già người ta càng ưa thích người khác trọng nể và bày tỏ lòng biết ơn mình? Có phải thế không mà khi người đàn bà Mông ấy rưng rưng cảm tạ ông, ông lại thấy tâm trí sung sướng đến mê mẩn như vậy nhỉ?

Khách nhớ nhà hàng, chứ nhà hàng nào nhớ xuể mặt khách. Người đàn bà Mông ấy ở xã Thải Giàng Phố đặt ông làm bộ khóa bảo mệnh cho con trai bà từ bao giờ, ông chẳng còn nhớ. Việc tuy tỉ mỉ, kỳ khu, nhưng trăm lần giống nhau thì cũng trở nên bình thường. Vậy mà bà ấy lại đến, đặt xuống cạnh cái bếp lò nhỏ xíu của ông một bu gà hai con sống thiến, và giọng vừa cất lên đã nghẹn ứ:

- Ông cụ ơi! Ông cụ ban phúc lành cho con, cho cháu. Con không bao giờ dám quên ơn trời biển của ông cụ!

Thế là thế nào nhỉ? Ông lão Chư thoạt đầu ngơ ngác, nhưng nhìn hai cái đầu gà trống mào xun lại thò ra mắt lồng, hiểu chuyện ở mức thông thường, liền cười:

- Ơn huệ gì, bà người Mông? Tôi làm. Bà trả công. Tiền công, bà không còn nợ. Vậy là xong.

Nói xong người thợ bạc lại cúi xuống với công việc hàng ngày của mình.

Nhưng, người đàn bà Mông đã sụp xuống, nức lên rất lạ. Thì ra bà tới đây để tỏ lòng tri ân ông. Ông đã gia ân cứu mệnh cho đứa con trai duy nhất của bà. Câu chuyện thật đơn giản và nghe như vô lý. Đứa con trai bảy tuổi của bà, nó đeo cái khóa bạc bảo mệnh do ông làm. Tháng trước nó ốm, ốm nặng lắm. Đã tưởng là phải bỏ. Vậy mà nó lại khỏi, lại khỏe mạnh như thường, nay lại đi học rồi. Y tá xã, y sĩ huyện tiêm thuốc thì cũng có. Nhưng dứt khoát là tà ma đã phải buông đứa nhỏ vì nó đã được cái khóa bảo hộ tính mệnh. Cái khóa thần vạn năng. Cái khóa gìn giữ linh hồn. Không có nó, ma ác hại như ma trâu, ma lợn sề, ma rừng, ma suối đã bắt đứa trẻ đi rồi. “Không phải do cái khóa đâu”. Thoạt đầu, người thợ bạc giải thích như vậy. Nhưng cả một buổi chiều người đàn bà Mông phấn khích quá, khăng khăng điều bà đã nói. Đến nỗi cuối cùng người thợ bạc già cảm động quá, nghẹn ngào: “Cả đời tôi, tôi chỉ ao ước đem lại cái hạnh phúc cho người khác. Nếu đúng là như vậy thì tôi sung sướng quá, bà người Mông ạ”.

Chao ôi! Ấy là nỗi sung sướng cao cả thuần khiết, không mảy may vụ lợi. Nỗi sung sướng thần diệu ấy đã biến đổi tâm tính con người, đến mức ông lão thợ bạc từ hôm ấy bỗng trở nên một kẻ xa lạ với chính bản thân mình. Ông hay lạc ý, lạc thần. Lai láng trong ông, đến mức không kiềm chế được, một cảm xúc thiêng liêng về giá trị con người mình. Lâng lâng vui sướng, từ trong thâm tâm, ông đón đợi những khách hàng mới của mình.

*

Sáng nay, khách hàng mới của ông lão Chư thợ bạc đã tới. Đó là một cô gái Tày vừa bước vào tuổi thanh nữ với tất cả niềm vui, nỗi bồn chồn vẻ e thẹn, cùng những tiên cảm hư huyền, trong sáng nhất. Vóc thon nhỏ trong bộ áo lam dài, mắt tròn mảnh dẻ như một bông hoa bướm mong manh, cô càng nổi bật vẻ tươi mới, rụt rè khi chào ông thợ già. Lát sau, cũng từ ngoài mưa bước vào hai khuôn hình phụ nữ tương tự, nhưng hơi đẫy và không còn vẻ e lệ, ngỡ ngàng. Hai người này là chị cô gái nọ.

- Cháu chào bác ạ - Cô gái hơi cúi xuống, khe khẽ.

- Ướt hết cả ba chị em rồi - Ông lão nói.

- Cũng còn may, chúng cháu còn sợ bị mưa ở giữa đường cơ. Chúng cháu ở xa lắm.

Ông lão đoán các cô gái Tày này ở miền hạ huyện. Nhưng chưa kịp hỏi, cô gái nọ đã tách ra khỏi hai người chị, kéo cái túi hoa đeo bên sườn ra phía trước, thò tay vào đó, kéo ra một bọc vải nhỏ nằng nặng.

- Bác ạ, ở đây bác có nhận làm vòng không ạ?

(Số sau đăng hết)

    Nổi bật
        Mới nhất
        Người thợ bạc ở Phố Cũ (Phần 1)<BR><I>Truyện ngắn của Ma Văn Kháng</I>
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO