NGƯỜI SĂN CÔN TRÙNG (Phần cuối)
Truyện ngắn Tống Ngọc Hân
>> NGƯỜI SĂN CÔN TRÙNG (Phần 1)
Ngày việc ai nấy làm, đêm tiền ai nấy đếm. Chỉ khác, giờ ba nồi dồn một. Tự nhiên thấy thân thiết như là máu mủ, trời đọa đày xa nhau, giờ tái ngộ. Ông sống bằng tiền đi lấy rong rêu về bán cho những hộ dân làm thú lưu niệm. Bà ki cóp tiền làm bánh, đều đặn gửi về quê. Cụ già cũng thế. Tiền tiền tiền. Đàn bà lúc nào cũng nghĩ đến việc kiếm tiền cho người khác tiêu chứ chả chịu nghĩ cho bản thân mình. Chẳng như ông. Một ngày chưa có rượu, ông chỉ nghĩ đến rượu.
Thế rồi, có một ngày không được giọt rượu nào rơi vào mồm thật. Cái ngày vô vị ấy dài đằng đẵng. Đó là khi cụ già bị cảm lạnh nằm rên hừ hừ không đi xin được, bà vợ thì hếch mắt lên mà bánh trôi bánh nổi, giẫm phải vỏ chuối trên phố, ngã gẫy tay phải bó bột. Ông đi về giữa bệnh viện và nhà như con thoi, gió thốc cho bạc cả mặt. Tiền thì hết vì không đi lấy được rêu. Ai đời lại hỏi thằng bệnh, cho tôi vài hào rượu? Không đời nào lại thế cả.
![]() Minh họa của Trung Dũng |
Ông giới thiệu ngon lành. “Mẹ tôi đấy. Còn đây là bà nhà tôi. Bọn trẻ đi làm ăn xa hết, cậu không ngại thì về đây mà ở, giường tôi rộng lắm. Nhà này, trông thế thôi, cũng hơn hai chục mét vuông đấy, chả hẹp đâu”. Chẳng biết do thằng bé thấy mặt ba con người hiền lành, hay nó thấy nồi cơm sôi ì ục mà thèm cái không khí gia đình. Nó gật gật.
Thế là ông có con. Thấm thoắt đã năm năm. Ngày, nó lặn lội rừng non rừng già tìm rêu cùng ông. Tối, hai bố con tự làm thú rêu bán. Nó khéo tay lắm. Ông bảo. “Ở chợ thì phải như người không quen mới kiếm được tiền. Chứ về nhà rồi, là gia đình, phải có trên có dưới, không được nói trống không với bà, với mẹ nghe chưa, còn bố thì thế nào cũng được”. Ông còn đặt chỉ tiêu. Gia đình ta phải phấn đấu đạt danh hiệu gia đình văn hóa. Cụ già rồi, ở nhà không đi xin nữa. Bố cũng sẽ cai rượu, khi nào có tiệc thì uống.
Ông là con út trong một gia đình đông con. Sau mối tình say đắm mà không thành với một cô sơn nữ thì ông ở vậy nuôi thân và được các anh chị cắt cho một chỗ đất đủ để chui ra, rúc vào. Hồi ấy, cũng bốn mươi chứ chẳng còn trẻ trung gì cho cam. Mồm hay rượu nên nhà lỉnh kỉnh chai lọ. Con bé buôn phế liệu chỉ chừng hai nhăm, hai bảy là cùng, nom còn mỡ màng phết, chỉ tội xấu. Câu chú lại câu anh, cuống cả lên vì nhiều chai quá, trên giường, dưới gậm, toàn chai là chai. Hỏi có chồng chưa, em bảo, ở quê là “đắp chiếu rồi”. Phí phạm thế sao được. Thế rồi cứ độ tuần em đến, lắm lúc còn rút hộ đôi dép đang kè kè ở chân mà say quá mang cả lên giường. Thế là cảm động, là thành tình yêu. Cưới cheo tử tế đấy, chứ không phải qua loa đâu. Dẹp cái chai lọ rác rưởi đi. Nghề côn trùng đang phất. Một mình chồng cũng nuôi sướng hai cái miệng rồi. ấy, đàn bà là thế. Nó biến lều tranh thành tổ ấm, nó cũng biến thiên đường thành địa ngục. Đời ông trải qua hai cơn thăng trầm mang tên đàn bà rồi, không có rượu, biết còn gì để vui, để buồn? Nói cai thì dễ mà cai thật, quả là khó.
Thấm thoắt, cái thằng con nuôi chăm chỉ, ngoan ngoãn đã thăng chức cho ông bà. Ông lùn lên bố chồng. Bà bánh trôi lên mẹ chồng. Sướng thật. Khách khứa tíu tít. Bà xúng xính bộ áo tân thời tím như quả sim, cấp kểnh trên đôi giày cao gót. Ông com lê, cà là vạt, chỉnh tề, tươi hơn hớn, mặt chín như gấc.
Đám cưới xong. Nhà gái, vốn là ông bà chủ một trang trại nuôi nấm lớn ở tỉnh bên, nhà đang thiếu nhân lực, gợi ý xin thằng bé về ở rể. Ông bà thông gia một ơn, hai ơn nhà trai đã dạy dỗ thằng bé nên người. Cái mặt ông tái đi một thoáng rồi lại đỏ tấy lên.
Tháng sau, đến lượt anh con trai út của bà tìm lên, rụt rè xin phép ông cho đón mẹ nó về quê. Những năm rồi, tiền bà gửi về đã thêm thắt vào xây được ba gian nhà tử tế, lấy chỗ hương khói cho bố chúng. Giờ là lúc gia đình muốn được đoàn tụ. Với lại bọn trẻ, các con của anh, không có người trông, nhếch nhác lắm. Ông ngồi vắt chân chữ ngũ. Tóc hoa râm rung rung. Mười năm tình nghĩa vui buồn, sao giống như một giấc trưa ghế đá.
Ngày tiễn bà về quê làm bổn phận với cháu con, ông hào phóng sổ lồng tháo cũi. “Bà về mạnh khỏe nhé”. Bà bước lên xe. Ông trộm xiết tay bà. “Tôi đợi bà”. Bà run run gỡ tay ông ra. “Ông đừng đợi tôi”. Ông cười nhạt. Được rồi… được rồi, bà yên tâm.
Cũng năm ấy, cụ già trở nên yếu ốm. Cụ ao ước được về lại nơi chôn rau cắt rốn để gặp lại cháu con và họ hàng. Ông đực mặt ra. Cố rặn một nụ cười chẳng rõ mặn nhạt.
* * *
Giờ đây, ông tự do tuyệt đỉnh. Căn nhà hai bốn mét vuông, rộng thênh thang. Ông vẫn thích ghế đá công viên. Nó vừa vặn lắm. Một hôm, nằm trên ghế đá, thấy đôi bướm vàng vờn nhau bên vòm tầm xuân đang chíu chít hoa nụ, ông ngồi bật dậy. Chạy như bay về nhà, chuẩn bị chăn, vợt, đèn, pin, lương khô và nước. Ông lên núi. Trở về cái nghề bắt bướm thôi. Phong lưu và mạo hiểm. Rừng lạnh, độ cao hai nghìn năm trăm mét. Sau một tuần rình rập, hóa trang bằng lá cây, cuối cùng ông cũng chộp được một con bướm đêm bảy màu sặc sỡ, to bằng cái nón. Sáng ra, ông hí hửng xuống núi.
Ngang qua rừng trúc Giàng Tả Chải, ông hoa mắt vì cả một vùng rộng lớn óng ánh vàng những cánh bướm đang dập dờn mê hoặc. Lần đầu tiên trong đời ông thấy cảnh này. Hàng ngàn vạn con bướm vàng sậm kiêu sa lượn vòng quanh ông. Một ngày hội chăng? Hay một cuộc biểu tình lớn đòi lại bình yên cho những cánh rừng?
Về phố, một tay săn bướm đã giải nghệ nhìn ông thương hại. “Tranh côn trùng hết thời từ lâu rồi, ế lắm, ông không biết sao? Còn ai mua bướm nữa đâu? Nên cũng chẳng lo ai phá rừng nữa”. Ông già băn khoăn nhìn cái túi lưới. Trong túi có con bướm quý, canh bạc cuối của ông. Ông dự định có tiền sẽ đi thăm thằng cháu nội năm tuổi mà ông chưa biết mặt. “Thôi, trả tự do cho mày”. Con bướm đêm choáng ngợp ánh sáng ban ngày chập choạng bay về phía thung lũng. Ông dửng dưng nhìn theo.
Rượu say, ghế đá ướt lạnh. Khuya khoắt. Sương mỗi lúc một dầy. Bầy thú rêu chui ra từ những hốc đá trong công viên, nhảy múa tưng bừng như có hội. Dưới gốc sa mu cổ thụ, quán rượu chân gà im lìm. Hình như có một cụ già trực lửa và một thằng choai choai đang nhai chân già rau ráu. Ông dửng dưng bước qua.
Đây rồi, cái cột đèn cao áp làm việc khuya nhất. Dưới chân cột, hai thùng rác đầy inh ích, nồng nặc mùi, một cái lưng đàn bà cong cong đang cúi xuống loay hoay dọn chỗ ngủ. Cơn say đưa ông qua. Được một đoạn khá xa, bước chân như chậm lại. Ở đâu đó trong ký ức bật ra. “Ông đừng đợi tôi”. Rét mướt thế này. Tội nghiệp người ta. Tội nghiệp cả mình. Ông hăm hở quay lại. Ngắm một lúc rồi mới cất tiếng hỏi người đàn bà trạc năm mươi có đôi mắt lá răm ướt át bằng cái giọng phong tình dày dạn. “Tạm bợ thế này à? Về nhà tôi mà trọ”. Người đàn bà liếc mắt, ướm hỏi. “Bao nhiêu tiền một tối?”. “Tiền nong gì đâu”.
Hai người thũng thẵng đưa nhau về. Đêm mỗi người một giường. Ngày mỗi người một việc. Quanh nhà chất đầy phế liệu. Một hôm gió mưa, cả hai người ở nhà. Thấy ông chủ dửng dưng như mèo chê mỡ, người đàn bà đành ngượng ngùng nói chuyện tiền nhà. Chủ nhà khoát tay. “Khỏi, bà nấu cho tôi nồi canh riêu cá mè là hết nợ”.
Cũng là miếng canh cá, mà sao, nuốt cố không trôi. “Thế này mà cũng gọi là canh cá à? Tưởng phải ngon hơn người ta nấu chứ”. Ông gắt.
Năm năm, cái tấm biển trưng trước cửa nhà “ngủ trọ không phải trả tiền” cho ông cơ hội để chòng ghẹo không biết bao nhiêu thân đàn bà cơ nhỡ. Ông lấy đó làm vui thì phải. Người trong xóm bảo ông là thằng già bị phụ bạc sinh ra đổ đốn, hư hỏng và rất oái oăm.
* * *
Đã tuần nay, phố chợ xuất hiện một phụ nữ cứng tuổi đi tìm con trai tâm thần mất tích. Tiền hết. Thấy dân chợ kháo nhau về một ông già chuyên cho phụ nữ thất cơ lỡ vận ngủ trọ không lấy tiền, bà ta đánh bạo gõ cửa. Ông ở trong nhà, hỏi bằng cái giọng chất chưởng. “Có biết uống rượu không?”. “Dạ, một chút ạ”. “Có biết nấu riêu cá mè không?”. “Dạ có, quê em đồng nước”. “Có biết làm bánh trôi không?”. “Dạ biết ạ”. “Được, vào đi”.
Người đàn bà dáng vẻ lam lũ, hố mắt trũng sâu, tay khư khư ôm cái túi quần áo bé tẹo bước vào. Ông trùm chăn trên giường, thò cổ ra quan sát. Khách nhìn cái giường còn lại tơ hơ, không đệm mà cũng không chăn, bẽn lẽn ngồi xuống. Ngồi mãi. Trời mỗi lúc một lạnh. Khách khẽ khàng hỏi. “Dạ ông có chăn không, làm ơn cho em mượn ạ”. Câu hỏi từ tốn, nhẹ nhàng, run rẩy, như vừa chạm vào chỗ nào đó tưởng như sâu lắm, kín lắm trong lòng người.
Ông chợt đưa tay ôm ngực, thảng thốt. “Không… không có chăn đâu”.
Ông tung chăn, tụt xuống đất, bỏ chạy khỏi nhà như con bướm ma vùng vẫy thoát khỏi cám dỗ từ quầng sáng đèn pin của người thợ săn côn trùng. Ngoài đường, sương mù như tấm lưới giăng sẵn.