Người mua nhà của bố mẹ tôi (Phần một)
Truyện ngắn của Bùi Ngọc Tấn

21/05/2008 00:00

      Cuối cùng mấy anh em tôi cũng phải đi đến một quyết định đáng buồn: Bán ngôi nhà, mảnh vườn của bố mẹ tôi. Không thể để nhà không người ở, vườn không người chăm. Anh chị cả tôi ở sát liền bên cũng bắt đầu già yếu, chẳng thể nào trông nom xuể được. Thật là một quyết định đau lòng. Ngôi nhà ấy, mảnh vườn ấy là những gì còn lại của bố mẹ tôi, là cái neo để tôi neo đậu vào một thế giới đã tan rã. Nó không chỉ là hạnh phúc của tôi, tuổi ấu thơ của tôi mà còn là hạnh phúc tuổi ấu thơ của các con tôi. Khi chiến tranh bắn phá, tôi gửi các con tôi về đấy và cho đến bây giờ chúng vẫn nhắc lại một thời bay nhảy nghịch ngợm, xa bố mẹ nhưng được sống trong tình yêu thương của ông bà. Bố tôi mất đã được bảy năm. Mẹ tôi qua đời cũng đã hai năm rồi. Mỗi khi về quê, tôi lại từ nhà anh chị cả, băng qua vườn nhà anh chị, bước sang mảnh vườn của cha mẹ tôi. Tôi đi giữa những cây quất, cây cau côi cút. Tôi đứng dưới tán lá rợp cây bưởi trước sân, đối thoại với nó bằng im lặng. Tôi ngồi xổm nhìn cái rãnh phía sau nhà, sát bờ tre um tùm, chờ một con cá đuôi cờ từ gốc cây khoai nước lao ra nhưng lại bắt gặp vĩnh cửu. Tôi mở cửa vào nhà. Căn nhà hoang, ẩm và tối. Tôi nghe rõ hơi thở của mình. Tiếng cha tôi gọi tôi uống trà. Mẹ tôi ngồi trước bếp mổ cá, lũ gà choai xông vào cướp những thứ bỏ đi trên thớt... Triết học, tuyệt vọng, hạnh phúc và đau nhói. Thánh địa của tôi. Trở về đó, tôi quên tất cả.
      Vậy mà phải bán đi chốn cư ngụ cuối cùng ấy. Phải bán đi để mình thành một kẻ bất hiếu, phản bội, bơ vơ, tay trắng. Mai một dần quá khứ. Mòn mỏi dần kỷ niệm. Bỗng nhiên chẳng còn quê hương, chẳng còn gì cả.
      Tôi không sao quen được với ý nghĩ những người lạ mặt sẽ tới ở đây. Tôi không thể tha thẩn ở nhà người ta, nơi mặt đất mỗi bước chân tôi giẫm lên, mỗi cành lá đều biết trò chuyện cùng tôi.
      Thế nhưng vẫn cứ phải bán thôi.
      Thật may mắn, người mua cơ ngơi ấy lại là cô Thoan, một người có họ với nhà tôi. Gọi là vì cô gọi tôi là cậu chứ không phải là cô còn trẻ. Cô trạc tuổi tôi, nghĩa là cũng đã ngót nghét sáu chục rồi.
      Khi biết người mua là cô Thoan, chẳng riêng gì tôi vui. Các con tôi trên dưới ba mươi tuổi bỗng đồng ca như chúng đồng ca những ngày còn bé:
      Cái đầu cô Thoan lắc lư
      Cái đầu cô Thoan lắc lư 
      Và cười với nhau, đôi mắt long lanh, đôi mắt thời gian sơ tán. Đó là bài hát chúng đặt ra để hát về cô.
      Cô nghèo. Người sắt lại. Khuôn mặt đăm chiêu, rầu rĩ. Cô đi hơi lệch lệch. Như người đi không vững. Quan sát cô, lũ con tôi đã sáng tác nên kiệt tác của chúng: Cái đầu cô Thoan lắc lư. Chẳng bao giờ thấy cô cười. Họa hoằn lắm cô mới cười thì lại càng thảm hại. Nụ cười như mếu. Cô gầy yếu nhưng làm không chê vào đâu được. Việc hợp tác. Việc nhà. Cuốc đầm. Gánh rạ. Đập lúa. Nuôi lợn. Đắp tường. Lợp nhà. Thủy lợi là công việc nặng nhọc cũng có mặt cô Thoan. Bác Văn, chồng cô còn phải vào tận Lán Tháp làm thuê, mang về khi bao sắn khô, khi chục cân mì gia công. Lít nhít một đàn con nhỏ trong cái thời hợp tác toàn được mùa trên giấy, cái thời con gà, chục trứng cũng phải cân nghĩa vụ, cô chỉ mong được một bữa no. Ống chân cô ngâm nước chua mặn từ bé đến giờ, chất phèn có lẽ đã ngấm vào tận xương, nó vàng bóng như ống đồng. Cô là người nữ xã viên hợp tác xã nông nghiệp một thời. Đảm đang, cam chịu, thương chồng, thương con, chịu khó chịu khổ, có thể làm quần quật mười hai tiếng đồng hồ khi dạ dày lép kẹp, bất chấp mọi lý thuyết về số ca lo sinh ra và số ca lo tiêu thụ, chịu đựng được tất cả mà không hề thắc mắc.
      Cô hay đến làm vườn cho bố mẹ tôi. Khi làm cỏ, khi xới xáo. Lúc đánh phân lợn từ chuồng ra thành đống rồi bốc bùn dưới ao nhào với rơm trát để ủ mục bón cây...
      Bố mẹ tôi chỉ thuê cô Thoan làm vườn vì cô chịu khó, cẩn thận và điều quan trọng, cô không có tính tắt mắt. Vườn đầy hoa quả, mùa nào thức ấy nhưng cô không đụng. Bố mẹ tôi rất ghét thói ăn cắp. Cần, hỏi xin, các cụ cho. Các cụ đâu keo kiệt. Đã có người đến xin rau thơm về ăn thịt vịt, vặt trộm mấy quả chanh quả ớt để dưới rổ rau thơm, bố tôi biết, cụ không nói nhưng lần sau người ấy xin rau thơm, cụ không cho nữa.
      Cô Thoan đứng giữa vườn cây trái, cam quất, những cành táo lai trĩu quả, những quả trứng gà chín vàng, hẳn cũng muốn ăn hoặc hái đem về cho lũ con ở nhà, nhưng cô biết rằng không nên ăn cắp. Cô im lặng làm, không trò chuyện, không nghỉ ngơi, thỉnh thoảng mới đi về phía chum nước mưa đặt bên gốc cau, cầm gáo dừa múc nước im lặng uống một hơi. Cô đi lại trong vườn, xiêu xiêu lệch lệch.
      Cái đầu cô Thoan lắc lư. Tất nhiên lũ con tôi hát rất khẽ và bao giờ cũng bị mẹ tôi mắng:
      - Cha bố chúng mày. Cô ấy nghe thấy thì... Ai lại nói người ta thế bao giờ không?
      Cô Thoan thích làm cho bố mẹ tôi. Được tiền công đã hẳn. Còn được ăn no. Cơm độn mì, thứ mì chúng tôi đong theo tiêu chuẩn, tí tép, đĩa rau luộc, đĩa cá kho... Với cô như thế đã là đại tiệc. Cô ăn rất ý tứ. Nhưng cứ nhìn cái cách cô buông bát, cách cô lấy đũa cả vun vun chỗ cơm còn lại ở đáy nồi, cũng đủ biết cô đang thực hiện câu châm ngôn Pháp khi ăn uống: Phải rời bàn ăn khi vẫn còn một chút thòm thèm.
      Thỉnh thoảng đến nhà tôi làm, cô còn dắt theo một đứa con gái. Khi là cái Vân mà cô vẫn gọi là cái Tý Con. Khi là cái Thoa còn có tên là cái Tý Rẫu. Chắc cô muốn chúng cũng được một bữa cơm no có cá có tép. Cô ăn và nhìn con ăn. Thấy con bé ăn cơm không, cô gắp thức ăn cho nó. Cô giằng bát của nó:
      - Đưa bát đây bu trộn cho.
      Cái Tý Con và cái Tý Rẫu suýt soát bằng nhau. Chúng giống nhau ở mái tóc đỏ hoe dựng đứng, khuôn mặt nhem nhuốc và vẻ sợ hãi tất cả mọi người. Chúng cóc cáy còi cọc tanh tưởi đến nỗi vợ tôi phải bảo cô:
      - Còn nước bồ kết đấy, tý nữa gội đầu cho con bé đi.
      Một hôm nhà tôi có giỗ. Theo lời dặn của bố mẹ tôi, cô Thoan đến sớm, vo gạo đãi đỗ, rửa rau... Cỗ ở nhà quê nhất là thời gian hợp tác trước đây thường đơn giản nhưng cỗ ở nhà tôi được tiếng là khá hơn. Có gì đâu. Gạo nếp là thứ quý hiếm lắm thì anh chị tôi bao giờ cũng chuẩn bị sẵn, tất nhiên chẳng đào đâu ra nếp cái hoa vàng, nhưng cũng là loại nếp ngon, và căn bản là nhiều đỗ xanh. (Đĩa xôi thời đó thật là danh giá. Chú em họ tôi cưới vợ cho con trai, làm hàng chục mâm mà chỉ có một đĩa cơm nếp đặt trên bàn thờ nghĩa là trên nóc tủ li. Mâm chúng tôi, khách ở phố về là thượng khách được ngồi ngay ở salông cạnh đấy. Chúng tôi cứ thò tay lên bàn thờ, vụng trộm véo cơm nếp, véo cháy nhắm rượu). Rồi đến mấy con gà giò nuôi cách giỗ vài tháng. Và chúng tôi ở phố về, thế nào cũng có cân giò lụa, cân chả quế.
      Bữa ấy hình như cô Thoan thả lỏng mình, không thực hiện câu châm ngôn Pháp về ăn uống. Ba mẹ con cô quây quần tíu tít (cái Tý Con và cái Tý Rẫu đến nhà tôi vào lúc nửa buổi, chúng chơi ở đầu sân và ngơ ngác nhìn khách khứa ra vào). Chúng tôi ngồi uống rượu. Xôi. Cơm. Thịt lợn. Thịt gà. Giò. Ninh. Chả. Nộm...
      Giữa bữa cô Thoan đi ra ngoài. Lát sau lại trở vào ăn tiếp. Thực ra chẳng ai để ý đến việc đó, nhưng đến chiều, sau khi khách khứa ai về nhà nấy, bát đĩa đã rửa xong, mấy mẹ con cô Thoan cũng đã về có mang theo đĩa xôi và mấy miếng giò lấy phần cho lũ trẻ ở nhà, chị dâu tôi vừa cười vừa nói:
      - Cô Thoan rõ khổ. Ăn no quá, ra đằng sau nôn rồi lại vào ăn tiếp.
      Tôi thấy nhói trong lòng. Vậy mà trước đây cô cũng con ông chánh, ông bá vào loại giàu có trong làng. Nhà cô kín cổng cao tường, cơm trắng cá ngon.
      Cũng như nhiều nơi khác, cái hợp tác xã quê tôi đã tiến lên quy mô toàn xã, nghĩa là ban chủ nhiệm ở một nơi nào đó vời vợi cao xa, cái đói càng trở nên gay gắt và cụ thể. Xã viên sợ ruộng, sợ đi làm. Mỗi công không được xu nào mà còn phải nộp thêm cho hợp tác ba lạng thóc. Tấc đất tấc vàng, đất đai ở vùng tôi quý lắm. Các nơi phá xiềng ba sào chứ bình quân mỗi người quê tôi chỉ hơn sào ruộng. Thế nhưng ruộng hợp tác bỏ hóa. Dân tình sợ ruộng, nhao ra phố ăn xin. Xã không có cách nào giữ người ở lại để làm cỏ bón phân, chăm bón cho số lúa đã cấy, đành phải họp bộ tứ xét duyệt cho từng đợt đi ăn xin, như vậy có tổ chức hơn, chấm dứt được tình trạng tự phát và cơ bản là vẫn bảo đảm số người ở nhà chăm bón lúa. Cô Thoan dắt hai đứa con gái, cái Tý Con và cái Tý Rẫu ra phố ngay trong đợt bình xét đầu tiên.
      Thật may cho bố mẹ tôi. Các cụ còn gọ gặng được vì còn có cái vườn. Cái vườn ông bà nội tôi để lại. Cau, ớt, chanh, trầu không, dọc mùng, dừa, chuối. Ba cây bưởi và vườn quất thừa đủ các cụ lo cái Tết, lại còn đong thêm được vài thúng thóc nữa. Không có mảnh vườn hẳn là bố mẹ tôi lâm nguy. Mấy đứa con cán bộ công nhân viên chúng tôi chẳng thể giúp gì được ngoài việc tống con về cho ông bà nuôi trong những ngày chiến tranh bắn phá. Chúng tôi biết mảnh vườn này là một khe hở trong quá trình hợp tác hóa. Nó sẽ được trám lại bất cứ lúc nào. Nhưng cái điều chúng tôi lo thật sự là sẽ di dân lên núi, sắp xếp lại giang sơn, cải tạo lại cơ bản tình trạng manh mún của nông nghiệp, chấm dứt một đêm dài nông thôn sản xuất nhỏ, bởi vì ngay bọn tư bản chúng nó cũng sản xuất lớn nữa là chúng ta... Chúng tôi lo bởi vì ở miền Trung người ta bắt đầu thực hiện cuộc cách mạng đó rồi.
      Trong khi những tin đồn chưa biến thành hiện thực thì bố mẹ tôi vẫn duy trì được mức sinh hoạt tối thiểu giữa lúc đa số xã viên phải rời làng làm cái nghề nhục nhã: đi ăn xin.
      Sau những cơ đận ấy, thực hiện chủ trương của trên, xã vận động bà con đi xây dựng vùng kinh tế mới. Vợ chồng cô Thoan bán cái túp ở làng, vào Khe Sâu cùng với mươi gia đình nữa.
      Cô biến mất khỏi sự suy nghĩ của tôi. Cuộc sống vật lộn, mưu toan, lo lắng, hy vọng và thất vọng khiến tôi quên hẳn cô, không nhớ được rằng cô vẫn tồn tại trên cuộc đời này. Các con tôi cũng đã quên hẳn bài hát Cái đầu cô Thoan lắc lư.
      Chúng tôi chỉ nhớ lại cô khi cô từ Khe Sâu trở về, mua ngôi nhà của bố mẹ tôi, một ngôi nhà gạch ba gian, lợp ngói Giếng Đáy, với đầy đủ các công trình phụ, bếp, chuồng lợn, nhà tiêu, bể nước mưa. Và hai sào vườn trồng tỉa đẹp như công viên, mùa nào thức ấy. Nghĩa là cô có hàng chục triệu, hàng cây vàng để mua một dinh cơ đẹp nhất làng. Cô Thoan đã hội tụ những điều kiện cơ bản nhất của một khách hàng mà chúng tôi mong đợi. Không chỉ là họ hàng thân thuộc, cô lại có nhiều tiền. Chứ ở vùng quê tôi, người ta nhịn ăn, bòn bán từ quả na, quả ớt, chục trứng, mớ rau khoai lang, đã ai được nhìn thấy vàng, và có lẽ chỉ mấy anh em ông Trương ba đời làm nghề giết lợn mới có tiền triệu trong tay.
      Vậy mà cô Thoan bỏ ra những năm cây vàng để mua cơ ngơi ấy, và tất nhiên cô không vét cạn vốn để mua nhà. Người ta nói cô còn nhiều vàng, nhiều lâu la(1) lắm. Hai đứa con gái cô ở Canađa không biết làm gì mà gửi về cơ man là lâu la. Số người ta may thế. Sang Ma-cà-mông(2) có nửa năm thôi mà đã được đi Canađa rồi. Các bà già ngồi ở chợ nói với nhau như vậy. Chẳng ai biết số đô la cô có trong tay nhiều ít, chỉ thấy dạo này cô hay cười hơn. Cô cười mà nét mặt không tươi lên được bao nhiêu. Nó đã định hình rồi. Cặp mắt thảm sầu buồn rười rượi, cái đầu hơi lắc lư, khuôn mặt đầy những vết nhăn choắt lại. Chẳng thể nào xóa được sự đăm chiêu lo lắng trên khuôn mặt ấy như chẳng thể nào tẩy xóa được vết phèn chua mặn trên ống chân bóng như ống đồng của cô. Nó đã ngấm vào xương.
      _________________
      (1). Đô la
      (2). Hồng Kông

      >>Người mua nhà của bố mẹ tôi (Phần cuối)

    Nổi bật
        Mới nhất
        Người mua nhà của bố mẹ tôi (Phần một)<br><i>Truyện ngắn của Bùi Ngọc Tấn</i>
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO