Người lưu giữ vốn văn hóa cổ M’nông
Nghệ nhân Y Tang, người dân tộc M’nông ở buôn Jiê Kul, xã vùng sâu Đăk Phơi, huyện Lăk, Đăk Lăk được nhiều người ở buôn gần làng xa quý trọng, biết đến bởi ông không những có tài chế tác mà còn biết diễn tấu nhiều loại nhạc cụ của đồng bào M’nông.
Bên bếp lửa bập bùng giữa nhà, 6 chàng trai dân tộc M’nông “da nâu, mắt sáng” đang say sưa thổi 6 ống nứa, ống to, ống nhỏ, ống cao, ống thấp, bên cạnh là người đàn ông trạc tuổi 70, dáng người dong dỏng, đôi mắt lim dim, thỉnh thoảng hai bàn tay nhè nhẹ gõ theo từng nhịp âm thanh vang lên từ các ống nứa. Anh cán bộ văn hóa đi cùng nói nhỏ: đó là lúc nghệ nhân Y Tang. Tiếng nhạc của bài “Pep kon jun” vừa khép lại, gương mặt của nghệ nhân Y Tang từ từ giãn ra, quay về hiện tại.
![]() Một loại nhạc cụ độc đáo của người M’nông |
Tiếp chuyện chúng tôi, nghệ nhân Y Tang chậm rãi kể về nguồn gốc, cách gọi tên và không gian biểu diễn của nhạc cụ bằng ống tre nứa mà đồng bào M’nông gọi là H’Nung Pro. H’ có nghĩa là giống cái, Nung là ống thổi, Pro là số 6 trong hệ số đếm của đồng bào M’nông. H’Nung Pro là 6 cái ống thổi mà đồng bào còn gọi là kèn thổi. Tuy nhiên, nhạc cụ này vận dụng toàn bộ những làn điệu của bộ chiêng nên còn có tên gọi độc đáo khác là chiêng thổi (Cưng ôh). Ống nứa dài nhất là ống mẹ, ống dài kế tiếp là ống bố, tiếp theo là hai con gái và sau cùng là hai con trai.
Nghệ nhân Y Tang cảm nhận, chế tác, truyền thụ âm nhạc dân tộc truyền thống theo một cách riêng của mình, tức là dựa vào đôi tai để xác định độ trầm, bổng cho từng nhạc cụ. Nghệ sĩ ưu tú Vũ Lân, nguyên Phó chủ tịch Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh Đăk Lăk - người đã có hàng chục năm liên tục nghiên cứu về các loại nhạc cụ dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên cho biết: cái tài của nghệ nhân Y Tang là ông chế tác thuần thục nhiều loại nhạc cụ của đồng bào dân tộc M’nông như Nung Ki (còn gọi là Nung Ki Jơh), M’buốt, Lút, Tlăk Tlơr (các bộ gõ của đồng bào M’nông). Nghệ nhân cũng thuộc nhiều bài chiêng cổ như: Bang bah dùng trong các lễ kết nghĩa anh em, đua tài của đồng bào M’nông, hay bài chiêng Gliêng Siêng Riêng, Pep kon jun. Đặc biệt, sự tài hoa của nghệ nhân M’nông hiếm hoi này còn ở chỗ ông lấy đồng lá làm lưỡi gà cho các loại nhạc cụ thay vì bằng tre. Sự đổi mới này đã tăng thêm độ bền cho các loại nhạc cụ mà âm thanh vẫn giữ nguyên sơ như lưỡi gà bằng tre.
Giọng trầm trầm, nghệ nhân Y Tang kể: có được vốn văn hóa truyền thống này cũng là nhờ lúc nhỏ có đôi tai, đôi mắt biết lắng nghe, biết học cách làm, cách hát kể của cha, của mẹ khi lên cái nương, cái rẫy hay của các già làng, các bậc cao tuổi khác trong buôn làng mỗi khi có các lễ hội, lúc diễn tấu cồng chiêng, các loại nhạc cụ, rồi ngấm dần dần vào trong máu thịt lúc nào không hay biết…. Pha chút đượm buồn, nghệ nhân lo lắng: rồi mai đây, các già làng, cũng như mình về với tổ tiên, về với núi rừng, không biết lớp trẻ có còn giữ được tiếng chiêng, các bài chiêng cổ, hay tiếng kèn thổi của H’Nung Pro, M’Buốt, các bộ gõ của đồng bào hay không?...
Lo cho cái vốn cổ truyền thống dần mai một, dù tuổi cao, nghệ nhân Y Tang vẫn miệt mài đến các thôn, buôn đồng bào dân tộc M’nông trên địa bàn huyện Lăk để truyền dạy lớp trẻ của con em đồng bào M’nông cách chế tác, diễn tấu các loại nhạc cụ dân tộc. Và cũng chính sự nhiệt tình truyền dạy của nghệ nhân Y Tang, các xã vùng sâu Đăk Phơi, Đăk Liêng, Buôn Jun... của huyện Lăk đã lần lượt thành lập các đội chiêng, đội kèn H’Nung Pro thường xuyên tham gia biểu diễn tại các lễ hội, hội diễn văn hóa, văn nghệ của địa phương, của tỉnh. Nghệ nhân Y Tang chia sẻ: hiện nay, dẫu mỗi buôn, mỗi xã chỉ có vài thanh niên biết chế tác, diễn tấu các loại nhạc cụ nhưng đây cũng chính là những hạt nhân quý trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống của đồng bào dân tộc M’nông.