Người công dân ưu tú của Hà Nội

Duy Hữu 29/11/2010 00:00

Ông Hoàng Đạo Thúy sinh vào năm đầu tiên của thế kỷ XX, cuộc đời ông đi trọn gần một thế kỷ, chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, và bản thân ông cũng trở thành một nhân vật lịch sử.

05-nguoi-cong-33310-180.jpg

Năm Canh Tý (1900), tại ngôi nhà số 7 Hàng Đào, ông cử nhân Hoàng Đạo Thành sinh cậu con trai út, đặt tên là Hoàng Đạo Thúy. Hẳn ông không ngờ người con trai út sinh sau đẻ muộn này ngày sau sẽ trở thành một nhà văn hóa tên tuổi. Thuở nhỏ, Hoàng Đạo Thúy theo học tại trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An, Hà Nội). Sau khi học xong, có tấm bằng Đíplôm, ông không ra làm ông Tham, ông Phán mà chọn nghề dạy học, bởi theo ông: “Nghề dạy học là nghề tự trọng, cao quý, và cái chính là không phải gần Tây, luồn cúi”. Ông làm giáo viên tiểu học tại trường Sinh Từ vào những năm 1920. Trong thời gian dạy học, ông bắt đầu nghiên cứu và tìm hiểu về xã hội, lịch sử dân tộc. Người thầy giáo trẻ đầy nhiệt huyết đó lúc nào cũng đau đáu tìm con đường nâng cao dân trí, thể lực cũng như giáo dục lối sống, tính cách cho người Việt Nam đương thời, và ông đã tìm thấy cách thức ở phong trào Hướng đạo. Tìm hiểu các tài liệu về Hướng đạo của Liên đoàn Hướng đạo Pháp, ông cho rằng đây là một cách để chấn hưng và truyền bá phong hóa của người Việt Nam thời hiện đại.

05-nguoi-cong-33310-300.jpg

Cũng xin nói một chút về phong trào Hướng đạo thế giới. Phong trào Hướng đạo do huân tước Baden Powell ở Gilwell khai sinh năm 1907 tại Anh. Tôn chỉ và phương pháp hướng đạo đặt trên căn bản ba cuốn sách: Sách Sói con (The wolf cub’s handbook); Hướng đạo cho các em  trai (Scounting for Boys) và Đường thành công (Rovering to success).

Đặc điểm của phong trào hướng đạo là một phong trào giáo dục thanh niên, thiếu niên đặt căn bản sự tự nguyện, không hoạt động và cổ vũ về mặt chính trị. Hoạt động được mở ra cho tất cả thanh niên, thiếu niên không phân biệt giai cấp, chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch. Mục đích căn bản của hướng đạo là giáo dục người trẻ trở thành những công dân hữu ích cho tổ quốc và xã hội.

Để duy trì mục tiêu và nguyên lý của phong trào hướng đạo, các phương pháp được áp dụng là: dùng luật và lời hứa để giáo dục; Cung ứng nhiều loại sinh hoạt như trò chơi, cắm trại, tham du; Học hỏi qua thực hành; Dùng đời sống ngoài trời làm môi trường sinh hoạt; Dùng phương pháp hàng đội để huấn luyện trẻ có cơ hội biết nhận trách nhiệm; Giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cùng với tinh thần hữu nghị và sự thông cảm quốc tế v.v...

Bắt tay vào hành động, năm 1929, Hoàng Đạo Thúy cho in quyển Hướng đạo sinh tại nhà in Đông Tây ở Hàng Bông. Cũng trong năm này, ông và một số bạn đồng chí thành lập Hội Hướng đạo Việt Nam. Năm 1931, ông thành lập âËu đoàn Việt Nam đầu tiên tên là đoàn Lê Lợi, với tên rừng là Hổ Sứt (sau đổi tên thành Hổ Mài Nanh). Cùng với việc thành lập đoàn Lê Lợi, một bạn đồng chí của ông là bác sĩ Trần Duy Hưng đã thành lập Thiếu đoàn Hùng Vương. Lúc đó, các tổ chức hướng đạo Việt Nam này dùng danh xưng là đồng tử quân.

Năm 1933, ông đổi lại danh xưng là Hướng Đạo Sinh và chọn áo sơ mi màu củ nâu với quần cộc màu xanh nước biển làm đồng phục. Tổ chức và sinh hoạt theo mẫu Hướng đạo Pháp. Phong trào phát triển rất nhanh, với sự gây dựng của các phụ trách đi tiên phong và sự giúp đỡ của Hướng đạo Pháp. Hướng đạo Việt Nam khi ấy đã tổ chức được ba ngành: ấu, Thiếu và Tráng. Đáng kể nhất là Tráng đoàn Lam Sơn, một trong những tráng đoàn đầu tiên cột trụ của phong trào Hướng đạo Việt Nam tại miền Bắc do chính Hoàng Đạo Thúy hướng dẫn. Ông cũng là tác giả các cuốn Hướng Đạo Đoàn, Đội Của Tôi với bút hiệu Ba Tô. Năm 1936, khi Liên hội Đông Dương được thành lập, ông là một trong những ủy viên phụ trách ngành Tráng sinh và là thủ lĩnh của phong trào hướng đạo Bắc Kỳ được người Pháp nể trọng.

Đến những năm 1940, Hội Hướng đạo Việt Nam có tổ chức rộng khắp Đông Dương. Trong số những tráng sinh ngày ấy, nhiều người sau này trở thành những cán bộ cốt cán trong chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hòa như Tạ Quang Bửu, Trần Duy Hưng, Dương Đức Hiền, Vũ Quý... Có tinh thần yêu nước, ông đã sớm bắt liên lạc với một số nhà cách mạng như Hoàng Văn Thụ, Trần Đăng Ninh. Năm 1943, với sự hướng dẫn của ông Vũ Quý, ông bắt đầu hướng phong trào hướng đạo tham gia Việt Minh.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp, bày trò “trao trả độc lập” cho Việt Nam, chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim được thành lập, ông được thủ tướng Trần Trọng Kim mời làm Bộ trưởng Thanh niên nhưng ông đã từ chối. Tháng 8 năm 1945, ông được mời dự Quốc dân Đại hội tổ chức ở Tân Trào. Tại đây, ông được gặp những nhà cách mạng nổi tiếng Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Sau cách mạng tháng Tám, Hoàng Đạo Thúy đã tham gia công tác trên nhiều lĩnh vực và giữ những cương vị như: đại biểu Quốc hội khóa I, Cục trưởng cục Giao thông công binh, rồi Cục trưởng cục Quân huấn Bộ tổng tham mưu, Cục trưởng cục Thông tin liên lạc. Thật bất ngờ, con người nom tướng “quan văn” này lại có tài chỉ huy, tháng 4 năm 1946 ông được giao phụ trách xây dựng Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, đào tạo cán bộ quân sự cho lực lượng quân đội còn non trẻ. Khi trường này khai giảng khóa I ngày 25 tháng 5 năm 1946, ông được cử giữ chức vụ giám đốc trường. Năm 1947, Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn được biên chế thành Trung đoàn E79, ông trở thành Trung đoàn trưởng. Trung đoàn tổ chức đánh thắng hai trận Đầm Hồng và Yên Thịnh, phá vỡ kế hoạch hợp điểm của quân Pháp tại Bản Thi trong Chiến dịch Léa.

Nhiều cựu chiến binh còn kể những kỷ niệm về cụ Hoàng Đạo Thúy, ông Hoàng Đình Luyến, nguyên trung đội trưởng Trung đội 2, Đại đội 1 công binh Liên khu 3 xúc động kể về kỷ niệm được cụ Hoàng Đạo Thúy lo gạo cho đơn vị. Đó là cuối năm 1947, lúc đó Hoàng Đạo Thúy là Cục trưởng cục Giao thông công binh. Một lần cụ đi công tác qua địa phận làng Bương Cấn (thuộc tỉnh Hà Đông cũ), gặp đơn vị của ông đang bố trí chướng ngại vật trên đoạn đê sông Nhuệ, thuộc địa phận làng Bương Cấn để ngăn chặn giặc Pháp nống ra vùng xung quanh Hà Nội, đánh lên Việt Bắc. Thời điểm đó, dân làng Bương Cấn đã tản cư gần hết, nên khi thiếu gạo, bộ đội không biết bấu víu vào đâu, đành phải ăn đói, sức khỏe giảm sút, mặt xanh da vàng. Mỗi ngày chỉ lao động vài giờ là chân tay đã bải hoải, hoa mắt, chóng mặt. Đơn vị phải chọn sáu chiến sỹ nông dân gốc, ra đồng tìm thức ăn. Anh em cố gắng hết sức, mỗi ngày cũng chỉ kiếm được vài cân cua, ốc, lươn, chạch. Số thực phẩm ấy và 10 kg gạo chia cho 50 người, đơn vị chỉ đủ hai bữa cháo trong ngày. Lên Ban chỉ huy đại đội xin tiếp tế, nhưng đại đội cũng hết gạo, đang phải ăn củ mài. Hôm ấy bỗng có một đoàn người đi xe đạp đến gần chỗ trung đội ông Luyến đang đào đất thì dừng lại. Người đi đầu trạc 45, 46 tuổi, trông mặt rất hiền, đội mũ hướng đạo sinh, đi lại bên ông Luyến hỏi han tình hình. Biết anh em trong đơn vị thường xuyên phải nhịn đói, cả đơn vị hiện chỉ còn 5 kg gạo, chưa biết ngày mai lấy gì cho anh em ăn, ông liền lấy chiếc cặp đen, rút ra một tập giấy bạc 20 đồng Cụ Hồ vàng tươi như còn thơm mùi mực, đưa cho ông Luyến và nói: tôi là Hoàng Đạo Thúy, Cục trưởng Cục Giao thông Công binh. Để anh em đói là lỗi tại tôi và cả Liên khu. Đồng chí cử người ra các chợ gần đây mua gạo để anh em ăn đủ no. Hôm nay về Liên khu bộ, tôi sẽ bàn với các đồng chí chỉ huy cấp tiền, gạo cho các đồng chí.

Cả đơn vị rưng rưng cảm động vì sự quan tâm của người chỉ huy cao nhất Cục Giao thông công binh. Hai hôm sau, có một con thuyền ngược dòng sông Nhuệ, đến tiếp tế gạo và hai con lợn cho đơn vị.

Năm 1948, đích thân chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho ông nhiệm vụ làm tổng thư ký Ban Thi đua toàn quốc. Bác Hồ đã tặng ông một chiếc quạt và nói: “Cụ hãy quạt cho phong trào bay lên”. (Chiếc quạt này nguyên của thanh niên làng Canh Hoạch, Hà Đông, biếu Bác Hồ, có đề hai bài thơ rất hay, được Hoàng Đạo Thúy nâng niu giữ gìn, sau ông tặng lại Bảo tàng Hồ Chí Minh). Ông được phong quân hàm đại tá từ năm 1958. Năm 1962 ông chuyển ngành sang công tác tại Ủy ban Dân tộc Trung ương và giữ chức Giám đốc Trường Dân tộc Trung ương. Ông giữ chức vụ này cho đến khi nghỉ hưu năm 1966.

Sau khi nghỉ hưu, ông dành hết thời gian, tâm huyết cho việc nghiên cứu, ông đã  để lại nhiều tác phẩm trên các lĩnh vực giáo dục, xã hội, chính trị, quân sự, lịch sử, văn hóa... Đặc biệt là những tác phẩm nghiên cứu lịch sử văn hóa Hà Nội. Trong vòng gần ba mươi năm, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị như Người và cảnh Hà Nội, Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, Phố phường Hà Nội xưa, Đi thăm đất nước, Lên đường hạnh phúc, Đất nước ta, Hà Nội thanh lịch... Không kể hàng trăm bài báo khảo cứu sâu sắc địa lý, phong tục, tập quán, con người Hà Nội xưa. Ông được mệnh danh là nhà Hà Nội học hàng đầu của Việt Nam.

Có thể nói, cuộc đời ông là đặc biệt và hiếm có, bởi ông hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực khác nhau và trong lĩnh vực nào cũng để lại những dấu ấn quan trọng. Đúng như ông đúc kết lại trong câu nói: “Dạy học 28 năm, làm Hướng đạo 15 năm, vào bộ đội 20 năm... Cả đời yêu nước. Làm gì cũng nghĩ yêu nước. Từ dạy học, làm Hướng đạo, vào bộ đội, làm trường Dân tộc, vì yêu nước. Đến cầm bút viết cũng vì mục đích ấy”.

Ông mất vào ngày 14 tháng 2 năm 1994 tại Hà Nội, hưởng thọ 95 tuổi. Trước khi mất, ông có làm một bài thơ nhan đề là Ngủ quên:

Gió thoảng, trăng trong buổi mát trời

“Ngủ quên không dậy” việc thường thôi

Các con chớ giận không từ biệt

Cháu nhớ ông bà ngày tháng trôi

Cái chính chỉ là một lời dặn:

“Giữ lòng trung hậu ở trên đời”

Nhớ thương ghi tạc tình cao cả

Tổ quốc bền lâu với đất trời.

Thành phố Hà Nội đã lấy tên ông đặt cho một con đường khá đẹp trong khu đô thị mới Trung Hòa - Nhân Chính, đó là tỏ lòng biết ơn công lao của ông đối với đất nước.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Người công dân ưu tú của Hà Nội
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO