Người bay (Phần 1)
Truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa

16/12/2014 08:56

Tôi biết bay năm mười bốn tuổi, khi đang sống cùng mẹ ở một vùng đồi.

Lần đầu phát hiện ra mình bay được là vào một buổi chiều giữa mùa hè. Hôm ấy đi kiếm củi trên đồi hoang, tôi trèo lên một cây cao để bẻ một cành khô lớn. Cành gãy, tôi trượt chân và kinh ngạc thấy mình không rơi thẳng xuống đất mà bay là là trong gió, trước khi đậu xuống triền cỏ ở lưng đồi, êm nhẹ như một chiếc lá khô.
Khỏi phải nói tôi đã vui sướng đến mức nào. Hai đêm liền, tôi không ngủ.

Minh họa của Đặng Hồng Quân
Minh họa của Đặng Hồng Quân 

Tôi quyết định giấu kín điều này và lặng lẽ tập bay cho đến khi thuần thục. Để khó bị ai bắt gặp, tôi đi vào núi. Từ trên những ngọn cây, tôi gieo mình vào khoảng không. Thoạt đầu chọn những cây thấp, sau cao dần. Hai cánh tay xoải rộng, tôi bay chầm chậm theo hình sin từng quãng ngắn, từ cây nọ sang cây kia, khi đuối sức thì đậu lại như chim trên ngọn cây để nghỉ. Sau nhiều ngày khổ luyện, tôi bay được từ đồi này sang đồi khác, rồi núi này sang núi khác. Trên cao thường xuyên có gió, nhờ sức gió đẩy, sự bay nhảy cũng được dễ dàng.

Khi đã quen bay từ ngọn cây xuống, tôi tập bay từ mặt đất lên. Việc này khó tưởng chừng không làm nổi. Bao nhiêu gió từ phương bắc thổi qua ngàn, bao nhiêu nước từ khe núi chảy ra, mãi đến khi những rừng sồi rừng thích chuyển màu, mùa thu rụt rè đã đổ vàng trên sườn núi, tôi mới bay được từng quãng ngắn qua thung lũng như chim non tập bay chuyền.

Ngày ấy đang học lớp bảy, tôi thích vào rừng chăn bò, kiếm củi hơn là đến lớp hay ở nhà. Cuộc sống của tôi ở trường không được tốt. Mặc dù tôi học khá, mọi người nói rằng tôi lầm lì, cô độc và có gì đó không bình thường. Đôi khi tôi cũng cãi lại các thầy. Thầy nói vũ trụ là vô tận, tôi cho rằng vũ trụ chỉ là vật chất, mà không gian vật chất nào cũng phải có giới hạn. Thầy bảo quần chúng làm nên lịch sử, tôi tin lịch sử được quyết định bởi các cá nhân. Sự phản kháng âm thầm này khiến các thầy cô thường vui vẻ hỏi han những học trò khác mà lạnh nhạt với tôi, và mỗi khi trong bài kiểm tra tôi đưa ra một ý tưởng gì đó khác với các bạn, bài của tôi thường bị cho điểm thấp. Điều đó làm tôi buồn bực suốt một thời gian dài.

Nhưng từ ngày di chuyển được trên không thay vì phải đi bộ bằng chân, tôi không còn bận tâm đến những điều ấy nữa. Trên trời cao lộng gió, sải rộng tay như đôi cánh đại bàng kiêu hãnh, nhìn xuống ngôi trường nhỏ như một hộp diêm nằm ở ven đồi, bên con đường đất hung hung đỏ, tôi thấy mọi thứ đều trở nên bé vụn, tầm thường.

***

Rồi cũng đến ngày điều bí mật của tôi bị phát hiện. Hôm ấy để tránh một cơn giông lớn đang kéo về đen rầm trên núi, tôi phải bay từ núi về quả đồi trồng bạch đàn sau nhà bởi nếu cuốc bộ thì sẽ gặp mưa dọc đường. Sợ những đám mây xám ngoét sũng nước và những tia chớp xanh, tôi bay rất thấp. Khi tôi bay qua một lũng rậm, con bé Hoa cùng xóm đang hái nấm bên khe nhìn thấy. Con bé vặn vẹo người, tự tát vào mặt mình mấy cái rồi nhảy chồm chồm. Biết mình hoàn toàn tỉnh táo, nó cuống quýt vứt cả giỏ nấm, vừa hớt hải chạy về xóm bằng đôi chân ngắn chủn vừa lắp bắp kêu:

- Bay... biết bay... Con bà Tím biết bay... Ôi trời.

Cái tin tôi biết bay nhanh chóng lan ra khắp xóm. Tối đó mưa xé đất, người trong xóm vẫn đội mưa đến nhà tôi. Họ trách mẹ con tôi giấu họ. Mẹ tôi phân trần rằng không hay biết gì. Khi mọi người về hết, mẹ nhìn chằm chằm vào mặt tôi.

- Mày biết bay thật hả con?

- Con bay được từ mùa hè đến giờ.

- Tao không tin.

Sáng hôm sau, mưa tạnh. Mặt trời mùa thu ném xuống sân những giọt lóng lánh vàng. Mẹ tôi kêu góc buồng đêm qua có chỗ bị dột. Tôi nói:

- Để con lấy cọ lợp lại cho mẹ.

Tôi lên nương chặt vài tầu lá cọ mang về. Rồi đứng trên sân, một tay cắp túm lá, tay kia gạt không khí tạo lực, tôi nhún mình bay lên mái nhà, nhẹ như cú nhảy của một con mèo. Mẹ tôi kinh ngạc đến nỗi một lúc sau mới nói được.

Những ngày sau đó mẹ tôi đi dọc theo các quả đồi, từ xóm trên đến xóm dưới, nhà nào cũng tạt vào. Bà xác nhận việc tôi biết bay là thật. Có người ngửa mặt lên trời cười, nói mẹ con bà này ăn nhiều rau tàu bay nên phát điên, nghĩ mình biết bay thật. Mẹ tôi lại lụi cụi đi từ xóm dưới về xóm trên, theo chiều ngược lại, quả quyết với mọi nhà rằng con bà bay giỏi chẳng kém gì chim. Tôi trách mẹ:

- Mẹ làm thế để làm gì. Con chỉ muốn nhà mình sống yên ổn.

- Con Hoa nó đi kể vung lên, cả xã biết hết rồi, giấu thế nào được hả con.

Ở trường, tôi bị mọi người vây quanh, săm soi như nhìn con vật lạ. Tôi lảng ra bãi cỏ phía sau trường, nơi có những vạt hoa cúc dại nở vàng. Khi ấy vừa sang đầu năm học mới.

Chủ tịch xã đi cùng phó chủ tịch đến nhà tôi. Ông bảo tôi bay thử một vòng cho các ông xem. Tôi nói dối rằng tối qua ngủ bị chuột cắn vào ngón chân, tê lắm, không nhún mình bay được. Phó chủ tịch kiêm trưởng công an xã thì đi vòng ra sau nhà tôi, nét mặt bí hiểm, ngó nghiêng, chân giẫm lên lá khô lạo xạo. Chủ tịch nói, sau khi mải ngó xem con gà trống lông tía cặm cụi đạp mái ở góc vườn:

- Bay được cũng là điều tốt. Nhưng đừng biểu diễn khoe khoang, làm ảnh hưởng trật tự an ninh trong xã.

Một buổi chiều, có người lạ tìm đến nhà tôi. Ông này người vuông, đầu nhỏ như quả bàng, đi chiếc xe đạp yên cao, ngực đeo máy ảnh Zenit, xưng là nhà báo trên tỉnh về. Vừa hỏi và viết lia lịa vào cuốn sổ nhàu, ông vừa nhìn xoáy vào mặt tôi, vẻ rất nghiêm trọng. Ông bảo tôi sang hàng xóm mượn chiếc cân tạ chuyên dùng để cân lợn về và đánh đu vào đó xem tôi nặng chính xác bao nhiêu cân. Rồi lục tìm trong các túi áo gi lê, xòe diêm châm một điếu thuốc Sông Cầu, kết luận:

- Nghìn năm trước trong núi Tây Tạng các đạo sĩ đã bay vù vù như chuồn chuồn. Họ nắm được thuật levitation, tức khinh công. Ở Việt Nam, đây là hiện tượng đầu tiên, số một.

Ít ngày sau, tin về cậu bé biết bay được đăng trên báo tỉnh. Nhiều người tò mò đổ về cái xóm nhỏ bốn mùa yên tĩnh của chúng tôi, xe đạp dựng quanh đầm nước trong xanh ven đồi đất đỏ. Chủ tịch huyện và chủ tịch tỉnh cũng tới. Chủ tịch huyện đi xe Uaz-469, chủ tịch tỉnh đi chiếc Moskvich màu xanh. Chủ tịch huyện da sạm, môi thâm, đi đứng trịnh trọng. Chủ tịch tỉnh hồng hào, phúc hậu, ăn nói xuề xòa. Họ nói tôi là hiện tượng lạ cần được nghiên cứu ở tầm quốc tế, cho mẹ con tôi một túi quà, và tất nhiên bảo tôi bay thử. Tôi lại nói dối rằng mới bị chó đớp vào tay, chưa bay được ngay, các bác cho cháu lui lại vào một dịp khác. Ra về, chủ tịch tỉnh xoa đầu động viên tôi, còn chủ tịch huyện thì căn dặn: “Tài năng cá nhân là hết sức bé nhỏ, sức mạnh tập thể mới là lớn. Nhờ có môi trường giáo dục tốt, có nhà trường và địa phương nâng đỡ, chắp cánh, cháu mới biết bay. Cháu phải khiêm tốn và biết ơn các thầy cô, biết ơn chính quyền xã, biết ơn bà con làng xóm, biết ơn bạn bè”.

Tôi được những người đứng đầu tỉnh và huyện đến thăm nhà khiến cả trường xôn xao. Ai cũng nhìn tôi với con mắt vị nể. Ở lớp, có thằng chợt đến rụt rè xin lỗi vì đã bắt nạt tôi ngày trước, có thằng lặng lẽ làm thân bằng việc cho tôi mấy cục phấn màu. Cô giáo chủ nhiệm tươi cười: “Em làm vinh dự cho lớp, cho trường”. Điểm một số môn của tôi vốn còi cọc bỗng nhỉnh dần lên. Trong văn bản báo cáo về tôi với phòng giáo dục huyện, thầy hiệu trưởng phấn khởi viết: “Một học sinh trầm tính, có năng lực. Tiềm năng âm ỉ và phát triển đến độ bay được như ngày hôm nay cũng là nhờ công lao dạy dỗ, vun đắp của nhà trường”.

Từ ngày ấy, nhà tôi thường xuyên có khách. Lắm khi đang bận việc ở đồi nương hoặc ao cá, nghe tiếng người gọi, mẹ tôi lại tất tả chạy về. Khách từ huyện từ tỉnh, có cả nhà báo ở Hà Nội lên. Mất ngày mất buổi tiếp lại tốn nước trà nhưng nghe các vị khách nói chuyện mẹ tôi cũng thấy vui. Họ nói “thằng cháu nhà chị” đang được cả phe xã hội chủ nghĩa quan tâm, rằng tôi học hết phổ thông sẽ được sang nước bạn học ngành phi công vũ trụ, tôi sắp được hưởng một khoản trợ cấp đặc biệt dù đất nước mình còn đang rất khó khăn, cuộc đời tôi sẽ rải đầy hoa và tương lai tôi sẽ sáng ngời như bóng điện. Họ còn nói Liên Xô đang xây dựng chủ nghĩa xã hội trên mặt trăng, đã thả bèo hoa dâu, trồng rau xà lách trên ấy rồi và “thằng cháu nhà mình” chưa biết chừng sẽ được lên thăm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Mặt Trăng trong một vài năm tới. Mẹ tôi khấp khởi hy vọng. Ông Hạng cuối xóm tối nào cũng xách điếu cày đến nhà tôi. Chính ông này đã từng dùng sợi thừng chạc trâu quất túi bụi lên người tôi như đánh một con vật vì tôi nhỡ để cho bò chạy sang nương nhà ông ngoạm gẫy cây măng tre. Giờ thì ông ghé cái miệng hôi khẳn vào sát mặt tôi, rì rầm:

- Quý lắm, quý lắm, người như cháu mày quý lắm. Cục vàng của đất nước, đâu phải chuyện đùa. Cháu sẽ làm được nhiều việc kinh khủng trong đời, nhưng có một việc này bác nhờ mày, trước tiên phải tuyệt đối bí mật, là đập nát cái loa công cộng trên cột điện ở đầu xã ta. Cái loa ấy chỉ lảm nhảm những thông tin vô ích chả ai buồn nghe, điên nhất là tờ mờ sáng nó đã khọt khẹt ầm ĩ làm cả xã tỉnh giấc đến chó mèo cũng không ngủ tiếp được, sáng ra đi làm ai cũng mệt phờ. Nó đánh vào sức khỏe mọi nhà, thật tàn bạo... Mày thương bác, thương làng xóm mình thì nửa đêm bay lên cột điện phá mẹ cái loa chết tiệt ấy đi. Đứa nào thay loa mới vào ta lại bay lên đập tiếp...

***

Bao kỳ vọng của mẹ tôi sớm bị dập tắt. Có tin không tốt từ ty giáo dục tỉnh về tôi. Ông trưởng ty là người mới được điều từ nơi khác về, đã nhíu mày ba lần khi nghe báo cáo về “cậu học sinh biết bay ở xóm núi”. Ồng ta nói người mà bay được thì quái dị, lịch sử tiến hóa hùng dũng từ đi khom đến đi thẳng của nhân loại chưa hề có chuyện này. “Một hiện tượng không có sự phát triển nhân cách bình thường, tiềm ẩn những nguy hiểm khó lường cho xã hội, cần hết sức thận trọng, cảnh giác” – ông trưởng ty kết luận trong một cuộc họp. Tin đưa về, ngôi trường của tôi xao xác như khu rừng ủ bão. Vào lớp, không đứa nào muốn ngồi cạnh tôi. Chúng thì thầm với nhau rằng tôi sẽ không được kết nạp vào Đoàn, học hết cấp ba cũng không được phép thi vào trường nào cả. Các thầy cô lạnh nhạt với tôi như trước, điểm kiểm tra các môn của tôi lại tụt xuống dần. Thầy dạy sinh vật nói oang oang tại phòng hội đồng: “Cụ trưởng ty thật sáng suốt. Người bay như dơi là không thể chấp nhận được, nó phá vỡ toàn bộ kiến thức sinh học ta đang dạy trong sách giáo khoa”. Thầy dạy vật lý mỉa mai: “Con người sinh ra là để đi bằng chân. Nếu thắng được trọng lực của hành tinh thì khác gì đái vào định luật vạn vật hấp dẫn”. Thầy hiệu trưởng gọi tôi lên phòng, có cô giáo chủ nhiệm lớp tôi ngồi cạnh. Thầy nói: “Hiện chưa có chỉ thị cụ thể của trên về trường hợp của em, nhưng em phải sống thật bình thường như mọi người và không được bay ở bất cứ nơi nào cả”. Cô giáo chủ nhiệm nhìn tôi như người xa lạ, không nói câu gì.

Mẹ tôi lặng lẽ khóc, người héo hon như quả đỗ đũa phơi nắng. Thời ấy thanh niên ngu dốt là bình thường, nhưng không được vào Đoàn thì là thứ người vứt đi trong xã hội. Tôi chỉ thương mẹ. Vào Đoàn hay đại học, tôi chả cần.

- Đi tìm gặp bác chủ tịch tỉnh đi con. Bác ấy là to nhất, lại đã đến nhà mình, nhất định bác ấy sẽ bênh vực con.

Mẹ tôi nói như van nài. Thương mẹ, tôi đánh liều tìm đường lên tỉnh. Trung tâm tỉnh ở xa, qua mấy rặng núi, tôi chưa đến bao giờ. Không dám bay, tôi đạp xe đạp. Đến nơi, dừng chiếc xe bê bết bùn đất trước cổng tòa nhà lớn lặng ngắt, tôi hỏi bác Quảng chủ tịch tỉnh, người gác cổng dài miệng ngáp: “Ông ấy mới về hưu rồi”.

Mẹ tôi ốm vì buồn.

Giữa lúc lòng tôi đang ủ những đám mây u ám nặng nề thì một làn gió sáng thổi đến bất ngờ: cô Hà xuất hiện.

Đó là một cô giáo mới, về trường sau lễ khai giảng một tháng, được phân công dạy môn sử ở lớp tôi. Cô trẻ lắm, mới ngoài hai mươi, nghe nói vừa tốt nghiệp đại học, không hiểu vì lý do gì lại về dạy cấp hai ở cái trường xóm núi này. Ngày đó người có bằng đại học như cô là hiếm lắm. Buổi đầu tiên cô vào lớp dạy, gần sáu chục học trò nam và nữ, tất cả lặng người đi. Từ nhỏ đến lớn, chỉ quen ăn đói mặc rách, chúng tôi chưa nhìn thấy một người con gái nào xinh như thế bao giờ.

Gương mặt cô tròn tròn và luôn nở nụ cười đẹp mê hồn. Dường như lúc nào cũng có ánh trăng tỏa ra từ gương mặt và nụ cười tươi sáng ấy. Cô mặc áo trắng bó sát thân hình mềm mại như kiểu áo cóm của phụ nữ Thái, một màu trắng tươi, trắng trong tinh khiết như cũng đẫm ánh trăng. Gần gũi mà sang quý, gợi cảm và xa xôi, đó là một cái gì mâu thuẫn rất khó lý giải ở cô mà chắc hẳn không một người con gái nào trên đời có được. Cô giảng bài cũng tài hoa, cuốn hút, nhưng buổi học đầu mải ngắm cô, cả lớp tôi ngơ ngẩn chẳng ghi được chữ gì.

Từ sau buổi đó, cô trở thành chủ đề bàn luận vô tận của lớp. Bọn con gái làm thơ tả cô, rồi khóc vì nhận ra những con chữ thô kệch của mình chỉ làm méo mó đi cái nhan sắc ấy. Đám con trai thở dài, tóc dựng ngược lên phờ phạc. Tình yêu của chúng tôi dành cho cô, đau khổ và hoang dại, như những bông hoa xanh trên núi nở trái mùa.

Một hôm có tiết học sử, trước khi vào lớp cô vẫy tôi lại, bảo tôi gặp cô sau khi tan học. Không biết có việc gì, tôi hồi hộp vô cùng. Khi cả trường về hết, cô đợi tôi bên cửa lớp, mắt long lanh và nhoẻn nụ cười đẹp mê hồn. Cô hỏi tôi rằng có phải điều mọi người nói về tôi là sự thật.

Tôi thưa vâng ạ. Cô nhìn tôi chăm chú và mỉm cười. Tôi ngây ngất trong màu trắng sáng từ áo cô tỏa ra.

Cô nói cô đã tìm đọc trong các sách và biết hiện tượng người bay trên thế giới là có thật. Thế kỷ XVII, tu sĩ Joseph Desa ở làng Cupertino miền Nam nước Ý đã bay lên khỏi mặt đất hàng trăm lần trước sự chứng kiến của nhiều người, trong đó có cả Đức Giáo hoàng. Kỳ diệu nhất là ông đã từng cắp một cây thánh giá lớn bay vụt lên một quả đồi thay vì phải mất nhiều người khiêng. Ông qua đời năm 1663 và được phong thánh.

- Giá như cô được nhìn thấy em bay nhỉ... Dù một lần thôi. Cô rất tò mò, thật đấy.

Tôi thưa với cô rằng tôi sẽ rất vui nếu được làm điều đó, nhưng mong cô hiểu cho tình cảnh của tôi lúc này.

- Cô biết việc bay của em hiện giờ không được phép. Tất cả những gì mà do trình độ nhận thức chưa hiểu được, chưa kiểm soát được thì cách làm dễ nhất là cấm, xã hội loài người xưa nay vẫn vậy. Nhưng cô vẫn muốn bằng cách nào đó được thấy em bay.

Tôi đánh bạo nói rằng, nếu cô không ngại, tôi sẽ dẫn cô vào núi, đến một nơi thật hoang vắng.

Chẳng ngờ cô đồng ý ngay, có phần háo hức. Cô quyết định đi luôn vào sáng chủ nhật tuần ấy. Tôi ra về, lòng dâng lên niềm hạnh phúc vô bờ.

***

Sáng chủ nhật, tôi đến đón cô trước khu nhà tập thể nơi cô ở. Qua dãy đồi trồng bồ đề phía sau trường học, hai cô trò đi dọc theo một con suối rất dài và bắt đầu vào núi. Sau những vạt núi trồng lúa nương hiu hắt là đến rừng già. Cô Hà mặc áo trắng ôm khít thân mình, có thêm đường nẹp màu hồng dọc theo hàng cúc, đội chiếc mũ vải trắng rộng vành thắt nơ. Vẫn nụ cười đẹp mê hồn trên môi, cô nhanh nhẹn lách mình qua những tảng đá lớn. Giữa rừng hoang, chiếc mũ xinh xắn của cô phất phơ như một con bướm trắng khổng lồ.

Chẳng mấy chốc, hai cô trò đã lạc trong xứ sở ngọt ngào của thích, của sồi. Màu vàng ngời ngợi của nắng thu lẫn trong màu vàng óng ả của lá sồi, không còn phân biệt nổi. Lên cao, màu lam sơn thẳm xanh nhòe trong màu thanh thiên tươi thắm của trời, cũng không còn nhận ra đâu là mây đâu là núi. Thiên nhiên đẹp đến tột cùng của nó, trong một ngày cuối thu đầu đông.

Qua rừng già, lại leo dốc để lên núi tranh. Đây đó những thân cây cụt cháy đen sì từ mùa đốt nương năm trước vạch những dấu chấm than khắc nghiệt lên nền trời. Khi ra giữa vùng cỏ tranh trải một màu vàng xanh hút tầm mắt, cô giáo của tôi đứng im lặng, nét mặt thoáng ưu tư. Tôi hỏi quê cô ở đâu mà cô leo núi giỏi vậy. Cô đáp:

- Quê cô ở Sơn La, cũng có những núi cỏ tranh bát ngát thế này. Em thấy không, những đồi tranh ở miền núi luôn gợi cảm giác hiu quạnh và se sắt buồn...

Hai cô trò lại đi. Dưới trời xanh mênh mông, trên cỏ tranh ngút ngát vô tận. Gió thổi lộng như muốn xé người, cô phải đưa tay giữ chiếc mũ trắng trên đầu kẻo bay mất. Đi bên cô, tôi đón nhận mùi hương thơm ngát trinh nguyên mà sức gió hung hãn kia không đủ làm nhạt hết. Tôi chợt nhận ra đây là giờ phút tươi đẹp nhất, vĩnh viễn không bao giờ trở lại, trong cuộc đời mình.

(Số sau đăng hết)

    Nổi bật
        Mới nhất
        Người bay (Phần 1)<br><i>Truyện ngắn của</i> Phạm Duy Nghĩa
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO