Ngón chân cụt (Phần 1)
Truyện ngắn của Nguyễn Quốc Trung

26/01/2011 08:09

>> Ngón chân cụt (Phần cuối)

Ngón chân cụt (Phần 1)<BR><I>Truyện ngắn của Nguyễn Quốc Trung</I> ảnh 1
Minh họa của Vũ Xuân Hoàn

Tiếng ông Mân mời gọi hàng xóm uống nước đánh thức tôi dậy. Mới năm giờ, nước nôi gì sớm thế? Tôi chợt nhớ, dân làng mình có thói quen lâu đời tráng bụng sáng bằng nước chè xanh. Nhìn ra cửa sổ, trời đã bửng, gần giáp Tết Nguyên Đán lãng đãng sương. Sau hơn mười năm mới về nơi mình sinh ra, lớn lên, vậy mà tưởng như đến một vùng quê xa lạ, hàng xóm trước kia đã chuyển đi nơi khác sinh sống, người khác tới dặm vào, chỉ còn ông Mân là cư dân cũ. Tôi vội men theo lỏi vệt đường qua mấy gốc cọ, sang nhà người thời thanh niên là thần tượng của đám trẻ mục đồng chúng tôi ngày ấy.

Chủ nhà ngồi đợi khách trên chiếc chõng tre, bên cạnh là cái nồi đất to đen nháng, mấy cái bát sành men nâu bóng, đồ dùng có đầu thế kỷ trước hết thảy dân làng đã thay bằng hàng mới, nhưng ông hàng xóm của tôi thì coi đó như gia bảo. Cũng vậy, cả vùng đã bỏ nhà gỗ, ở nhà xây, lát gạch, đổ bê tông từ trong nhà ra đến giáp đường thôn, ông vẫn ở nhà gỗ mít, lợp gianh, nền đất. Ông đi chân đất, xỏ giày dép vào là bước luống cuống, vấp ngã liền, trên mảnh sân con, in dấu chân to bè, ngón cái bị cụt, tựa như đóng xuống đó cả trăm năm. Bàn chân huyền thoại của người câu lươn làng tôi đấy. Chú uống nước. Ông đón tôi bằng lời ấy rồi dùng gáo dừa chuyên nước từ ấm ra bát, mùi thơm chát nước chè xanh trong sớm mờ sương có sự quyến rũ với những ai từng dùng, là chất nghiện có lợi cho sức khỏe lắm đấy:

 - Làng bây giờ hiếm người vậy đó. Lắm khi nấu nước lên phải uống một mình, nuốt không vô. Xa làng lâu ngày, trở về, chú thấy vậy không?

 - Vâng, đúng vậy đấy, làng bây giờ rất thưa vắng người, nhà cao tường, kín cổng quá, chẳng khác gì ở thành phố. Bà đi đâu, ông?

- Đang nấu bữa sáng ở nhà ngang. Chú thấy đó, chỉ có thằng già ngón chân cụt này là vẫn sống như xưa. Bao giờ chú rảnh, tôi đưa chú đi xem đồng. Đồng làng giờ khác xa ngày trước rồi? Chú còn nhớ đồng làng trước kia không?

Trước mắt tôi hiện lên cánh đồng dáng anh chàng Mân bận quần đùi nâu, phản lưng trần thuộc nắng màu đồng hun, chiếc giỏ tre bên hông, tay cầm cần câu lò dò trên bờ ruộng lúa đang thì con gái xanh ngỡn, thỉnh thoảng anh cúi gập mình một lúc đã lôi con lươn từ trong hang ra cho vào giỏ. Người làng tôi quen anh đến độ khi ra đồng bắt gặp dấu bàn chân phải cụt ngón cái đóng trên đường biết là dấu chân của anh. Mân phát hiện hang lươn rất tinh, dù miệng hang được ngụy trang trong cỏ, khi anh nhẹ nhàng thòng dây cước đầu có gắn lưỡi câu móc mẩu giun vào cửa hang, ngón tay búng búng trong nước gọi chú lươn đang quấn mình tận sâu trong hang bò ra đón mồi đã đợi sẵn. Chỉ cần thấy tiếng động nhẹ ở dây, Mân đã biết con lươn đã ngậm mẩu mồi và anh kéo dây thật căng, nếu chùng một chút là lươn sẽ nhả được lưỡi câu ngay, rồi từ từ lôi con lươn ra. Khi lươn qua cửa hang một khúc, anh dùng ngón tay giữa kẹp chặt cổ lươn kéo ra cho vào giỏ. Biệt tài câu lươn của Mân nổi tiếng khắp vùng, đến độ đồng nghiệp khi thấy dấu chân ngón cái cụt in trên bùn non bờ ruộng là họ biết anh đã đi qua, chẳng còn sót móng lươn nào nữa đâu, họ vội quay sang hướng khác.

Đó là thời rừng cổ thụ đến tận lũy tre làng, mộ vôi, lăng miếu thời nhà Nguyễn rải rác đây đó trong vườn, trên núi, cái thời ấy còn lại với dấu ấn những mồ mả, miếu mạo cầu kỳ, đâu đâu cũng đồn có ma quái. Trên sườn đồi cạnh làng có lối mòn len giữa cỏ gianh chạy ngang qua cái miếu đá vôi cổ, cứ vài ba năm lại xảy ra một người chết, khi phát hiện ra da đã tím bầm, môi sùi bọt mép, tay co quắp. Người ta phao có con quỷ hóa thành rắn cụt đuôi giết người tế thần núi, khiến dân làng nơm nớp lo sợ. Đến người theo đạo Thiên Chúa vốn tin có bề trên phù hộ cũng sợ con rắn quỷ, trong họ đạo ấy đã có tới bốn người đàn bà, hai cô gái bị chết. Một sáng sớm anh chàng Mân vượt đồi cỏ gianh để sang cánh đồng bên kia câu lươn thì bị con rắn cụt đuôi ấy đớp vào ngón cái chân phải, nọc rắn cạp nong độc không thể cứu được, cạp nong tại chỗ, rắn hổ về nhà. Nghĩa là cạp nong cắn chết tại chỗ, rắn hổ cắn nọc cũng độc nhưng còn bò về được tới nhà mới chết. Mân liền rút cây dao phay bên mình chặt đứt đốt ngón chân ấy và băm con rắn ma thành nhiều khúc, cấp tốc lấy mật nó bôi vào vết thương. Rồi ung dung đi tiếp sang đồng bên kia moi lươn. Mân đã trừ được hiểm họa cho dân làng. Không hiểu từ đâu mà người ta phao lên, Mân có phép thuật đặc biệt không những diệt rắn độc mà còn trừ được ma quỷ, là cứu tinh của những ai đang gặp vận xui. Người ta gọi Mân là Thạch Sanh! Chàng Thạch Sanh hành nghề câu lươn của làng Kẻ E! Đi đâu cũng nghe tiếng ca ngợi Mân, nhà nào có đám giỗ, lễ tết là mời bằng được anh tới, nhiều gia đình được anh tới ăn cơm coi như là một vinh dự cho họ. Mân sống trong sự tâng bốc của dân làng! Anh đã ngộ nhận, ảo tưởng chăng? Thì con người ta, ít nhiều đều ngộ nhận, ảo tưởng về mình, trên cấp độ nào đó, ảo tưởng giúp cho người ta tồn tại, thắp lên hy vọng giữa cuộc đời trần tục, lắm vất vả này. Nhưng với anh chàng Mân, ảo tưởng lớn quá.

* * *

Người quê tôi uống nước chè xanh không chỉ một vài bát, mà phải năm, sáu bát là thường, cho dù chưa ăn lót dạ. Sớm nay, ông Mân và tôi mỗi người đã nốc ba bát rồi. Tôi ngắm thần tượng tuổi thơ tôi, ông đã ngoài bảy mươi, người sắt lại, rắn rỏi, đôi mắt nâu vẫn rất sáng, nói chuyện hóm đáo để. Thì tôi vẫn xâu được kim, tự vá đồ áo mà. Ông nói và cúi nhìn đất, khuôn mặt thuộc bởi gió Lào, nắng lửa thoáng thất vọng, chán chường, nhưng chỉ một thoáng, ông ngẩng đầu, giương mắt đầy nét cương nghị. Giọng ông hứng khởi:

- Sắp tới mùa thả diều rồi, chú nán lại nghe tiếng diều của tôi nha.

- Bác vẫn thả diều?

- Thú vui từ xưa đến nay của mình mà. 

Sống trong sự tôn vinh, có phần tâng bốc thái quá của mọi người, Mân được một ông thợ chuyên làm diều ở làng Thịnh Văn tặng một con diều sáo lớn, sải cánh dài hai mét, có hai bộ sáo, sáo mẹ, sáo con. Trong nguồn gió Lào tràn đến tưởng như vô tận, Mân căng cánh diều lên, tiếng sáo diều ngân xa. Đêm đến, Mân giong diều về trên nóc làng cho bàn dân thưởng tiếng sáo diều ngân vi vu như xua cái hơi nóng vẫn còn đọng lại trong đêm. Anh đã biến thứ gió nóng quái ác và tưởng như vô tích sự thành có ích. Chẳng thế mà đám trẻ con, thanh niên làng mong mùa gió Lào để được chiêm ngưỡng cánh diều neo giữa vòm trời xanh mút mắt nhả ra tiếng sáo vi vu. Đâu ngờ, cái anh chàng thích mặc đồ nâu sòng, thời đó vải thô nhuộm nước củ nâu rừng sẵn lắm, lại có tâm hồn lãng mạn đến vậy.

Ông nói tiếp, giọng rủ rỉ:

- Chú biết không, với tôi nghề câu lươn là do trời định nữa đấy. Mỗi người đều làm nghề do bề trên sắp đặt.

Trong tất thảy các công cụ lao động do con người sáng chế ra, cái lưỡi câu là không thay đổi so với thời tiền sử. Đấy là một que sắt nhỏ uốn cong, đầu giũa nhọn hoắt, trổ một cái ngạnh sắc. Cái lưỡi câu đã hoàn thiện ngay từ khi nó ra đời, không thể cải tiến được nữa. Anh chàng Mân làng Kẻ E đã sử dụng công cụ ấy để nuôi sống cả đời mình và đại gia đình. Những năm Mỹ leo thang ra miền Bắc, bom rơi xuống đồng làng tôi, dân phải sơ tán vào các xóm tận trong kia núi, chỉ có anh chàng Mân câu lươn vẫn bám đồng, hàng ngày anh men theo bờ hố bom lấp xấp nước, không hiểu sao bên hố bom lươn sống nhiều đến thế, vạch năn lác cỏ chỉ tìm hang lươn. Cho dù trên đầu anh từng tốp máy bay gầm thét, tiếng bom, tiếng đạn rốc két phóng đỏ lừ, tiếng nổ tưởng bung màng nhĩ, nơi này nhà bốc cháy, chỗ kia người chết, xóm làng không còn tiếng gà trưa, tiếng chó sủa trăng.

* * *

Có tiếng bước chân và tiếng chào đon đả:

- Chào chú qua chơi.

Tôi quay lại, sửng sốt, cô Ngự trẻ đẹp nhất làng bây giờ đã là một bà già, mặt nhăn nheo những nếp nhăn hằn thành nếp như gấp lại, lưng hơi còng, đầu trùm khăn nhung đen như người già ngày xưa. Đúng là không có gì tàn nhẫn hơn thời gian. Tiếng nói của bà vẫn rất trong, người làng này thường quan niệm, người già mà giọng nói trẻ là số vất vả. Bà đặt rá khoai lang luộc lên chõng:

- Chú ăn sáng với ông nhà tôi luôn.

Mùi khoai lang quảng thơm dậy. Tôi tưởng như mình đang sống vào thời những năm bảy mươi của thế kỷ trước, khi khoai là lương thực chính của dân làng, buổi sáng ăn khoai, trưa và chiều cơm độn khoai. Bây giờ, đời sống người ở nông thôn, trong đó có dân làng này, đã khá lên, người ta hiếm khi ăn khoai, vậy mà gia đình này vẫn vậy. Ông Mân thanh minh:

 - Không phải nhà này thiếu gạo đến độ không đủ ăn sáng, nhưng khoai lang là món ăn không thể thiếu của tôi, ăn lâu thành nghiện, như vị thuốc bổ. Có hồi, tôi nghỉ ăn khoai mấy tuần người cứ mệt nhoài không cầm nổi cần câu. 

 Ông nói rồi nhìn bà vợ cười. Bà lấy vạt áo lau vết nhơ trên má ông. Thật có ít vợ chồng già nào được vậy. Hai người kết nhân ngãi gần nửa thế kỷ rồi, có ba người con, hai người con trai nhảy vào Đăk Lăk khai hoang lập nghiệp, có rẫy cà phê, mấy lần mời bố mẹ vào hưởng lộc con khi tuổi già, nhưng ông không đồng ý. Tao còn đủ sức lôi con lươn ra khỏi hang, thì không muốn phụ thuộc vào ai. Ông đáp vậy.

(Số sau đăng hết)

    Nổi bật
        Mới nhất
        Ngón chân cụt (Phần 1)<BR><I>Truyện ngắn của Nguyễn Quốc Trung</I>
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO