Nghịch dị trong tiểu thuyết (Kỳ 1)
Huỳnh Thu Hậu

09/07/2014 08:40

Tuy ở hai đất nước khác nhau nhưng Mạc Ngôn và Hồ Anh Thái đều gặp gỡ nhau ở nghệ thuật miêu tả hiện thực. Họ đã kiến tạo nên một thế giới nghệ thuật mà ở đó hiện thực được tiếp cận thông qua lăng kính nghịch dị.

Nhà văn Mạc Ngôn
Nhà văn Mạc Ngôn 
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về nghịch dị (grotesque). Thuật ngữ này khi được du nhập vào Việt Nam có thể được dịch theo hai cách: cái thô kệch hoặc nghịch dị. Đó là “một kiểu tổ chức hình tượng nghệ thuật (hình tượng, phong cách, thể loại) dựa vào huyễn tưởng tiếng cười, sự phóng đại, lối kết hợp và tương phản một cách kỳ quặc cái huyễn hoặc với cái thực, cái đẹp với cái xấu, cái bi với cái hài, cái giống như thực với cái biếm họa” [2,215]. Trong lịch sử, theo Bakhtine, thuật ngữ này ra đời lần đầu tiên ở thời Phục hưng. Nghịch dị rất quan trọng đối với tư duy tiểu thuyết. Trong văn học thế giới, có thể nhắc đến tác giả đầu tiên là Rabelaise với tiểu thuyết Garganchuya và Pantagruyen, sau đó phải kể đến Victor Hugo với Nhà thờ Đức Bà Paris. Đến thế kỷ XX, Franz Kafka là tác giả tiêu biểu đã sử dụng nghịch dị như là một phương thức nghệ thuật trong các tác phẩm như Vụ Án, Lâu đài, Hóa thân. Ở Việt Nam, trong tiến trình phát triển, Vũ Trọng Phụng là người đã sử dụng nghịch dị để xây dựng tác phẩm Số đỏ. Nghịch dị ở đây chủ yếu là sự kết hợp những cái không thể kết hợp như bi - hài, giả - thật, đạo đức - vô đạo đức, ở kiểu hình tượng vật chất xác thịt. Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy nghịch dị trong truyện ngắn của Nam Cao. Từ 1986 đến nay, nghịch dị được hồi sinh mạnh mẽ trong tiểu thuyết Việt Nam. Đó là nhờ cái nhìn dân chủ được phát huy. Nghịch dị đã góp phần tạo nên cái nhìn tự do với tiếng cười châm biếm, giải phóng bản thể của con người trước mọi sự rập khuôn, sáo rỗng. Thông qua nghịch dị, nhiều trật tự được định nghĩa, thế giới được nhìn khác đi.

Văn học đương đại Việt Nam là một bức tranh đa chiều, phức tạp và đầy màu sắc. Đó là nền văn học đa thanh với rất nhiều cá tính sáng tạo khác nhau cùng những nỗ lực khai tử thói quen cũ mòn và khuôn sáo, từ đó hình thành một Nguyễn Huy Thiệp (hậu) hiện đại, một Hồ Anh Thái mê chơi cấu trúc, một Nguyễn Bình Phương nghiêng về phân tâm học… Và không chỉ có thế. Mỗi một nhà văn đều tích hợp trong thế giới nghệ thuật của mình những yếu tố trên ở mức độ đậm nhạt khác nhau, trong đó, yếu tố nghịch dị là phổ biến và tạo thành những thông điệp giàu ý nghĩa xã hội và nhân sinh của thời hiện đại.

Cuốn tiểu thuyết tiêu biểu Báu vật của đời
Cuốn tiểu thuyết tiêu biểu Báu vật của đời
Theo Bakhtin, tiểu thuyết là một thể loại chưa hoàn thành, đang trong quá trình vận động. Theo đó, chúng ta thấy tiểu thuyết Việt Nam từ năm 1986 đến nay đã có rất nhiều nỗ lực để khẳng định vị trí của mình trong nền văn học. Từ Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh đến Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, những tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh… là một quá trình liên tục cách tân táo bạo để tiểu thuyết Việt Nam theo kịp với tiểu thuyết thế giới. Hồ Anh Thái là một trong những gương mặt tiêu biểu đã mạnh mẽ cách tân tiểu thuyết Việt Nam.

Văn học đương đại Trung Quốc cũng là một bức tranh đầy ấn tượng, mà Mạc Ngôn là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất, với giải Nobel văn học 2013. Độc giả Việt Nam biết đến Mạc Ngôn qua các tác phẩm như Đàn Hương Hình, Cây tỏi nổi giận, Cao lương đỏ và đặc biệt là Báu vật của đời.

Cả hai tác giả đều là những nhà văn của thời kỹ thuật số, thế giới phẳng và xu hướng toàn cầu hóa. Họ đều là những trí thức lớn, có chuyên môn sâu, có nhiều vốn sống và trải nghiệm sâu sắc về cuộc đời, kể cả những trăn trở về thời đại và dân tộc, mạnh mẽ cách tân trong văn học. Tuy ở hai đất nước khác nhau nhưng Mạc Ngôn và Hồ Anh Thái đều gặp gỡ nhau ở nghệ thuật miêu tả hiện thực. Họ đã kiến tạo nên một thế giới nghệ thuật mà ở đó hiện thực được tiếp cận thông qua lăng kính nghịch dị.

Đặc trưng của xã hội hiện đại là tính đa trị, tiếng nói đa thanh, mang cảm quan đối thoại mạnh mẽ. Vì thế, hình tượng nghệ thuật cần lung linh, đa nghĩa. Có rất nhiều cánh cửa để đi vào tiểu thuyết đương đại. Có người dùng ánh sáng của giải cấu trúc, ánh sáng của diễn ngôn, huyền thoại, kỳ ảo, phân tâm học… Soi chiếu và kiến giải hai tiểu thuyết tiêu biểu của hai tác giả trên dưới ánh sáng nghịch dị, chúng tôi hy vọng sẽ khám phá được nét độc đáo của từng tác phẩm.

Báu vật của đời là tác phẩm đặc sắc nhất của Mạc Ngôn. Yếu tố nghịch dị là một trong những phương diện làm nên sức hấp dẫn và ám ảnh đối với người đọc. Nghịch dị được thể hiện ở nghệ thuật xây dựng nhân vật Kim Đồng. Thượng Quan Kim Đồng con trai của Lỗ Thị là người khác thường bởi chi tiết anh không sống bằng cách nạp thực phẩm như mọi người mà bởi bú sữa của nhiều người phụ nữ, đặc biệt là mẹ. Anh chỉ có một sở thích và đam mê duy nhất là được ngậm bầu vú của mẹ, của những người đàn bà sẵn sàng cho anh. Kim Đồng từng phát ngôn rằng thế kỷ XXI là thế kỷ của Vú. Không phải ngẫu nhiên tác giả kết thúc câu chuyện bằng chi tiết: “Đêm ấy một đêm trời đầy sao, Kim Đồng nằm bên mộ mẹ, miệng ngậm những cánh hoa, anh nhớ lại bao nhiêu chuyện cũ, đều là những mẩu lấp lánh. Sau đó dòng hồi ức gián đoạn, lướt qua trước mặt anh là những bầu vú. Trong đời anh đã trông thấy đủ các loại vú, dài có, tròn có, nhọn có, dẹt có, đen có, trắng có, thô có, mịn có… Sau đó trên đầu anh những bầu vú khổng lồ lớn dần ra, cao dần lên thành quả núi cao, cao nhất giữa trời và đất, núm vú phủ tuyết trắng…” [5,859-860]. Bầu vú là biểu tượng của cái đẹp, của sự tinh khiết, của sự phồn thực, sự sống. Nhân vật Kim Đồng là kết tinh bởi khát vọng con người được trở về với suối nguồn linh chất, tôn vinh sự phồn thực. Anh cô đơn toàn triệt trong đời vì cái nhìn và những sở thích của mình. Anh khắc khoải với những vẻ đẹp của tự nhiên, của những giá trị truyền thống, vẻ đẹp của những chuẩn mực đã qua. Trong văn học đương đại Việt Nam kiểu nhân vật với những đặc điểm kỳ quái này cũng hay được nhắc đến như người thích ăn đất, người thích đám ma trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, người ăn sương, người ăn gió trong sáng tác của Nhật Chiêu. Có điều, kiểu nhân vật nghịch dị trong tiểu thuyết Việt Nam chủ yếu để nói về sự tha hóa của con người trước sự lên ngôi của vật chất.

Bên cạnh đó, nghịch dị còn thể hiện qua nhân vật người mẹ của Kim Đồng là Lỗ Toàn Nhi hay còn gọi là Lỗ Thị. Lỗ Thị là một kiểu nhân vật phụ nữ nghịch dị so với mẫu phụ nữ truyền thống theo quan niệm của phong kiến. Chi tiết Lỗ Toàn Nhi khi còn trẻ đã nói với bà cô của mình rằng, đừng bó chân cho con, con không cần lấy chồng là một chi tiết rất đắt lột tả được tinh thần phản phong và thái độ nổi loạn của nhân vật này: “Mỗi khi kể lại lịch sử bó chân, giọng mẹ có vẻ như tố khổ, lại có vẻ như khoe khoang về mình… Mẹ nói: Cô ơi cháu không lấy chồng nữa có được không?” [5,765]. Chị thách thức những khuôn phép và lễ giáo đã mấy ngàn năm đè nén, áp bức người phụ nữ. Đó là tiếng nói đòi tự do và đòi quyền sống. Một tiếng nói nhân văn. Hơn thế nữa, khi chủ động chọn cha cho những người con của mình càng minh xác chị không bao giờ chịu cúi đầu và thua cuộc trước định kiến là phụ nữ thì phải có chồng, và có chồng thì phải có con, và có con thì phải có con trai. Chín người con của hơn chín người đàn ông, đó là bí mật mà gia đình chồng không bao giờ biết được. Nhân vật người mẹ bảo đó là sự trả thù cho những nỗi đau đớn về tinh thần và thể xác mà gia đình chồng đã mang lại cho chị: “Đánh đi, đánh nữa đi, hai đứa nhỏ này không phải giống nhà anh! Toàn Nhi có đẻ thêm một nghìn đứa nữa, cũng không phải giống nhà Thượng Quan… Này mẹ, này chồng, các người cứ đánh tôi đi, cứ mong đi, tôi sẽ đẻ con trai nhưng nó không phải giống nhà Thượng Quan, các người thiệt to rồi” [5,785]. Cách thức trả thù của Lỗ Thị cũng độc đáo và dữ dội biết bao. Đồng thời, chi tiết nghịch dị Lỗ Toàn Nhi đem thức ăn về cho các con bằng cách ăn hết vào bụng rồi nôn ra thật sự làm chúng ta ngưỡng mộ. Một người mẹ ngoan cường và giàu đức hy sinh. Trong lịch sử nhân loại có lẽ chưa từng có hành động nào như thế mà nhà văn dùng để khắc họa tình mẫu tử thiêng liêng: “Lần đầu tiên mẹ ọe lương thực, chị Tám còn tưởng rằng mẹ ốm. Chị lần ra sân, đau xót gọi: Mẹ ơi, mẹ làm sao thế… Chị giơ nắm tay mềm mại đấm lưng cho mẹ, cảm thấy quần áo mẹ ướt sũng vì mồ hôi, chị ngửi thấy một mùi tanh kinh người trên mình mẹ, thế là chị trông thấy mẹ gập người như con tôm. Mẹ quỳ xuống đất, hai tay vịn hai mép bồn, hai vai nhô lên, cổ vươn ra rồi rụt lại, ôi cái đẹp đáng sợ, cái đẹp rùng rợn, ôi một hình ảnh trang nghiêm! Cùng với tiếng nôn ọe như tiếng sấm, người mẹ lúc thì co rúm lại lúc mềm oặt ra như nắm bùn nhão, cái thứ lương thực chết tiệt ấy quý như vàng ngọc châu báu từng hạt từng hạt rơi xuống bồn… Sau đó dưới ánh sao mờ ảo mẹ thò tay vào trong bồn khoắng từng vốc lương thực… Chị sắp sửa òa khóc thì gương mặt mẹ tươi tắn như đóa hoa quỳ dưới ánh mặt trời” [5,813]. Đây là một trong những chi tiết thể hiện sự tương phản, kết hợp những cái không thể kết hợp được, cái đẹp và cái gớm ghiếc, cái xấu xa, cái đẹp và cái rùng rợn, kinh dị. Chính vì thế tác giả đã dùng điệp ngữ cái đẹp rùng rợn. Khoảnh khắc mẹ trong tư thế và hành động xấu xa lại là khoảnh khắc đẹp nhất. Hình ảnh cảm động trên gợi chúng ta nhớ đến Fantine của Hugo đã phải bán cả tóc và răng để nuôi con. Mẹ ăn cắp bằng cách ăn hết vào trong bụng để mang về nuôi con. Hiện thực đen tối của đất nước Trung Hoa thời cách mạng văn hóa thật khủng khiếp. Người lao động vất vả đến kiệt sức nhưng không có đủ lương thực để nuôi con. Họ phải giành giật sự sống bằng cách đau lòng như thế. Ngoài ra, hành động giết chết mẹ chồng bằng chày, một lần nữa hé lộ nét nghịch dị toàn triệt ở nhân vật này. Giết mẹ chồng cũng có nghĩa là Lỗ Toàn Nhi đã lật đổ được chế độ phong kiến, đã giải phóng được thân phận làm dâu bị đối xử tàn nhẫn và độc ác. Cái chày vung lên cũng là khoảnh khắc Lỗ Thị nhớ lại bao nhiêu lần bà nội đã dùng bạo lực để hành hạ vì mỗi lần sinh con kết quả vẫn là con gái. Những trận đánh đòn khủng khiếp và mất hết tính người của bà nội đã ám ảnh mẹ.

Tóm lại, Lỗ Thị là nhân vật được xây dựng bởi nghệ thuật nghịch dị là sự kết hợp của những điều không thể kết hợp, là một người rất nhẫn nại chịu đựng, nhưng cũng chính là người nổi loạn, đầy tinh thần cách mạng, con người có một vẻ bề ngoài rất nhỏ nhắn, thể chất yếu đuối chân không nhấc lên được, vai không gánh nặng nhưng lại là người có ý chí và nghị lực mãnh liệt yêu con và dám làm tất cả để bảo vệ con kể cả giết mẹ chồng. Là một nhân vật phản phong toàn triệt.

Nếu Lỗ Thị là người phụ nữ phản phong thì bà nội lại là người đại diện cho trật tự lỗi thời ấy. Người đàn bà nắm giữ quyền lực và gia trưởng của dòng họ Thượng Quan. Bà nội đánh cả chồng và con trai cũng như con dâu. Bà thèm cháu trai. Nên mỗi lần con dâu sinh con gái bà lại trừng phạt thật dã man bằng roi, bằng chày. Bà còn muốn giết chết thậm chí ăn sống cả những đứa cháu gái đáng thương: “Trông thấy bà hai tay ôm Ngọc Nữ còn cái miệng móm thì ngoàm chặt vành tai Ngọc Nữ mà nhai hay cắn gì đó… Bà nội vẫn cắn chặt tai chị, nhai sồn sột như nhai miếng thịt dai ngoách” [5,827]. Suy cho cùng bà cũng là nạn nhân của chế độ nhất nam viết hữu thập nữ viết vô, của xã hội trọng nam khinh nữ. Cuối tác phẩm oan hồn của bà hiện ra trong ngôi mộ: “Bà nội chậm rãi cúi xuống với những cánh tay xanh lè những móng tay rất dài” [5,826] là biểu tượng những cái cổ hủ lạc hậu của chế độ phong kiến vẫn còn ám ảnh và ăn sâu trong đời sống của hiện tại dẫu những người như Lỗ Toàn Nhi đã dũng cảm lật đổ nó.

Nghịch dị trong tác phẩm còn thể hiện ở nhân vật chị Tám là Ngọc Nữ. Hình dạng bên ngoài bị mù, chị như cái bóng trong nhà, nhưng lại trở thành biểu tượng của cái đẹp thánh thiện nhất, chị mù nhưng chị là người hiểu được tất cả những gì đang xảy ra, chị cảm nhận hết được tấn bi kịch của mẹ, nỗi đau và sự hy sinh quá lớn của mẹ để nuôi cả một đàn con: “Chị không có mắt mà nhìn rõ thế thái nhân tình. Chị mặc quần áo cũ vì mọi người cho rằng mắt chị có sáng đâu mà biết được cũ mới. Nhưng cái đẹp trong tâm hồn chị, bọn phàm phu tục tử không bao giờ nhìn thấy. Chị bước trong con hẻm đã từng diễn ra bao chuyện bi hài, mùi vị của lịch sử xộc lên mũi, tiếng nói của lịch sử như triều dâng” [5,815]. Chị giống như người đẹp Remidiot trong Trăm năm cô đơn của Marquez. Là biểu tượng của cái đẹp tinh khiết, trắng trong và thánh thiện vượt trên tất thảy cái xấu xa, cái ghê tởm của lòng người và xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ.

(Còn một kỳ nữa)

    Nổi bật
        Mới nhất
        Nghịch dị trong tiểu thuyết (Kỳ 1)<br><i>Huỳnh Thu Hậu</i>
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO