Hai nghị quyết đã tháo gỡ được nhiều vướng mắc
Theo GS.TS. Lê Huy Hàm, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ nông nghiệp, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền nông nghiệp, nông nghiệp thông minh là yêu cầu tất yếu, nhiều nước ứng dụng công nghệ thông minh trong nông nghiệp từ lâu và đã đạt rất nhiều thành tựu.
Với Việt Nam, phát triển nông nghiệp thông minh càng quan trọng bởi tuy là nước nông nghiệp song diện tích đất canh tác bình quân đầu người thuộc nhóm thấp nhất thế giới. Đất đai đã bị khai thác quá mức - chủ yếu ở vùng đồng bằng, trong khi vùng trung du, miền núi chưa được khai thác hiệu quả. Bên cạnh đó, nước ta có đường bờ biển dài, chịu ảnh hưởng lớn của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn. Từ trận bão số 3 vừa qua có thể thấy rõ tác động của biến đổi khí hậu đối với nông nghiệp.
GS.TS. Lê Huy Hàm cho biết, tại Đài Loan, nhờ ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI), nông dân chỉ cần nhìn vào bản đồ nông nghiệp sẽ biết chính xác ở vị trí này nên trồng giống cây gì, chế độ phân bón ra sao, bảo vệ thực vật thế nào… “Nếu chúng ta hỗ trợ được người nông dân với cách làm đó ở vùng sâu, vùng xa thì sẽ rất hiệu quả”, GS.TS. Lê Huy Hàm nói.

Trên thực tế, nông nghiệp thông minh đã dần được định hình ở nước ta, với việc ứng dụng khoa học, công nghệ, trí tuệ nhân tạo trong nghiên cứu phát triển, cải tạo nguồn giống, quá trình canh tác, thu hoạch và chế biến.
Tuy vậy, TS. Đỗ Tiến Phát, Trưởng phòng Công nghệ tế bào thực vật, Viện Công nghệ sinh học cho biết, quá trình nghiên cứu gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Đó là trang thiết bị, máy móc còn rất hạn chế và lạc hậu nên khó tiếp cận và phát triển những công nghệ cao, công nghệ chuyên sâu. Thủ tục hành chính cũng rất phức tạp. “Một báo cáo tổng kết có thể lên tới cả gang tay thủ tục, nhưng nội dung thực chất liên quan đến khoa học có khi chỉ là một đốt ngón tay. Chúng tôi vừa làm khoa học, vừa phải biết kinh doanh, đấu thầu... Có thể nói, những thủ tục hành chính đó chiếm phần rất lớn thời gian mà các nhà khoa học dành cho một dự án khoa học của mình". Chưa kể, sản phẩm cuối cùng nếu không đúng kết quả dự tính ban đầu thì nhà khoa học bị coi là không hoàn thành nhiệm vụ và phải trả lại kinh phí cho Nhà nước…
Trong lĩnh vực nông nghiệp, để tạo ra một giống có thể đưa vào sản xuất phải mất 10 - 20 năm, trong khi các chương trình, dự án khoa học thường kéo dài 5 - 10 năm. Sau 10 năm, các sản phẩm mới dừng ở dạng tiềm năng, tức là vẫn cần thêm thời gian và kinh phí để phát triển thành sản phẩm cuối cùng, nhưng các nhà khoa học không thể tự bỏ tiền túi để hoàn thiện. Vì thế, hầu hết các sản phẩm hiện nay vẫn chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng.
Trường hợp doanh nghiệp muốn hợp tác với nhà khoa học để nghiên cứu và phát triển sản phẩm cuối cùng, họ lại gặp vấn đề lớn là các sản phẩm này thuộc các đề tài nghiên cứu của Nhà nước và sở hữu trí tuệ cũng do Nhà nước quản lý. Điều này càng khiến việc hoàn thiện và đưa ra sản phẩm cuối cùng trở nên khó khăn hơn.
Từ thực tế đó, TS. Đỗ Tiến Phát cho rằng, việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Quốc hội ban hành Nghị quyết 193 thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia sẽ tháo gỡ được các vướng mắc hiện nay. Các Nghị quyết nêu rõ: đầu tư vào các phòng thí nghiệm trọng điểm, vào công nghệ chiến lược; giúp các cơ sở khoa học có được nguồn lực để tiếp cận với các công nghệ mới; tối ưu các quy định pháp luật liên quan đến khoa học, công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo; giao cơ chế tự chủ cho các nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu; đặc biệt là chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học…
Cùng quan điểm, GS.TS. Lê Huy Hàm cho rằng hai Nghị quyết này sẽ thúc đẩy mạnh mẽ khuynh hướng nông nghiệp thông minh. "Lần đầu tiên, khoa học, công nghệ được quan tâm một cách thấu đáo như thế từ cấp cao nhất của của Nhà nước là Bộ Chính trị, Đảng, Quốc hội và Chính phủ". Ông cũng rất tâm đắc khi Điều 16 Nghị quyết 193 của Quốc hội về điều khoản thi hành quy định: Trường hợp có quy định khác nhau về cùng một vấn đề giữa Nghị quyết này với luật, nghị quyết khác của Quốc hội thì áp dụng quy định của Nghị quyết này.
Chính phủ cần có đơn vị phản ứng nhanh để kịp thời xử lý vướng mắc
Tuy vậy, còn rất nhiều việc phải làm để đưa Nghị quyết 57 và Nghị quyết 193 thực sự đi vào cuộc sống.
Theo TS. Trần Hồng Nguyên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp, Nghị quyết 193 quy định nhiều nội dung chưa có tiền lệ và “rất khó có thể khẳng định Chính phủ và các bộ, ngành đã lường hết được tất cả các nội dung”. Chẳng hạn, với quy định miễn trách nhiệm dân sự khi gây ra thiệt hại cho Nhà nước nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình, quy định trong quá trình nghiên cứu, Chính phủ cần phải quy định rất chi tiết, cụ thể; trường hợp sai một phần hoặc sai toàn bộ thì như thế nào? Cần phải ban hành khẩn trương các hướng dẫn đó như việc khẩn trương ban hành Nghị quyết 193, bà Nguyên nhấn mạnh.
Cùng với đó, cần tiếp tục rà soát văn bản pháp luật có liên quan. Ngoài ra, do Nghị quyết 193 có những chính sách thí điểm, đặc thù nên quá trình thực hiện sẽ có vướng mắc, khó khăn, Chính phủ cần giao cho một đơn vị nào đó phản ứng nhanh, thường xuyên tổng hợp thông tin, báo cáo Chính phủ để kịp thời xử lý. Cuối cùng, cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực - yếu tố quyết định sự thành công khi thực hiện Nghị quyết 57 và Nghị quyết 193; có chính sách thu hút nhân tài ở nước ngoài một cách linh hoạt hơn, để họ dù ở nước ngoài vẫn có thể cống hiến cho đất nước chứ không phải chỉ là thu hút họ về Việt Nam.
Đồng tình với ý kiến trên, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn, ĐBQH hoạt động chuyên trách Trung ương - Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường nêu, hiện các chính sách liên quan tới khoa học, công nghệ bị vướng cả ở luật và văn bản dưới luật. Về phía Chính phủ cần rà soát các nghị định, thông tư hiện hành để tháo gỡ. Ông mong muốn Chính phủ cần nghiên cứu kỹ Điều 16 liên quan đến các quy định khác nhau về cùng một vấn đề và Điều 17 về quy định chuyển tiếp của Nghị quyết 193, làm rõ để thể chế hóa thành các quy định cụ thể, tạo cơ sở minh bạch, rõ ràng trong áp dụng.
“Nghị quyết 193 đã có hiệu lực ngay khi Quốc hội bấm nút thông qua. Do vậy, Chính phủ cần tập trung quyết liệt để triển khai Nghị quyết hiệu quả nhất bằng nhiều giải pháp đồng bộ cùng với các giải pháp đề ra trong Nghị quyết 57. Có như vậy mới rõ được về hiệu lực, tính khả thi của Nghị quyết”, ông Nguyễn Ngọc Sơn bày tỏ.