Diễn đàn Quốc hội

Nghị quyết 71 – từ giáo dục đến chấn hưng văn hóa dân tộc

Bùi Hoài Sơn 11/09/2025 11:05

Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá giáo dục và đào tạo đánh dấu một bước ngoặt lịch sử, khẳng định giáo dục không chỉ là “quốc sách hàng đầu” mà còn là nhân tố quyết định vận mệnh dân tộc. Cùng với "bộ tứ nghị quyết trụ cột" được ban hành trước đó, Nghị quyết số 71 đã bổ sung mắt xích then chốt, tạo thành nền tảng đồng bộ cho sự phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Giáo dục - “nền móng” cho chấn hưng văn hóa

Ngay từ buổi đầu dựng nước, cha ông ta đã coi học hành là con đường ngắn nhất để lập thân, lập nghiệp và nuôi dưỡng chí khí dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” - câu nói giản dị mà chứa đựng tầm nhìn xa về mối quan hệ mật thiết giữa giáo dục và văn hóa. Chính vì thế, ngay sau khi đất nước giành được độc lập năm 1945, Người đã phát động phong trào “chống giặc dốt”, coi việc biết chữ là trận tuyến đầu tiên để chấn hưng văn hóa, khơi dậy sức mạnh tiềm ẩn của toàn dân tộc.

170520ha3.jpg
Bác Hồ luôn quan tâm đến giáo dục nước nhà. Ảnh: Tư liệu

Tinh thần ấy nay tiếp tục được kế thừa và khẳng định trong Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị. Nghị quyết nhấn mạnh: phải “nhận thức sâu sắc, đầy đủ và thực hiện nhất quán quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc, sự phát triển của đất nước”. Đây không chỉ là lời khẳng định chính trị, mà còn là tuyên ngôn văn hóa: giáo dục chính là nền móng để xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn mới.

Một nền giáo dục vững mạnh sẽ đào tạo nên những thế hệ công dân có tri thức, bản lĩnh, và lòng tự tôn dân tộc - chính họ là “chủ thể sáng tạo văn hóa” trong mọi lĩnh vực. Ngược lại, nếu giáo dục trì trệ, dân trí không được nâng cao, thì không thể có văn hóa mạnh, càng khó có con người Việt Nam hiện đại đáp ứng yêu cầu hội nhập. Do đó, Nghị quyết 71 không chỉ nhắm tới cải cách giáo dục theo nghĩa hẹp, mà thực chất là một chiến lược văn hóa - con người ở tầm quốc gia.

Điểm đặc biệt của Nghị quyết là nhấn mạnh trách nhiệm toàn xã hội: “phát triển giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân”. Cả nước phải trở thành một “xã hội học tập”, nơi mọi người đều có cơ hội học tập suốt đời, khơi dậy truyền thống hiếu học để tạo thành sức mạnh mềm của dân tộc. Khi giáo dục thực sự ăn sâu vào từng gia đình, từng cộng đồng, nó sẽ trở thành nền tảng tinh thần giúp văn hóa Việt Nam tự tin bước vào kỷ nguyên hội nhập và phát triển.

Văn hóa tri thức số - động lực mới từ Nghị quyết 71

Trong bối cảnh thế giới bước vào kỷ nguyên số, giáo dục không thể dừng lại ở việc “dạy chữ” và “truyền thụ kiến thức” theo lối cũ. Mỗi quốc gia phải định hình một nền văn hóa học tập số, nơi công nghệ và sáng tạo trở thành động lực phát triển. Chính vì vậy, Nghị quyết số 71 nhấn mạnh: “công nghệ số và trí tuệ nhân tạo đang tái định hình nền giáo dục trên phạm vi toàn cầu”, buộc chúng ta phải có “tầm nhìn và chiến lược mới cho hệ thống giáo dục trong tương lai”.

Điều đó có nghĩa, giáo dục Việt Nam phải tạo ra một thế hệ công dân thành thạo công nghệ, quen thuộc với môi trường số, biết tự học, học suốt đời và sáng tạo liên tục. Văn hóa tri thức số không chỉ dừng ở việc trang bị máy tính hay đường truyền internet cho nhà trường, mà sâu xa hơn, là hình thành thói quen và năng lực sử dụng công nghệ để tìm kiếm, xử lý và sáng tạo tri thức. Nói cách khác, đó là sự chuyển dịch từ “văn hóa ghi nhớ” sang “văn hóa sáng tạo” - từ học để biết sang học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình.

img6063-1757037955051804500452.jpg
Tổng Bí thư Tô Lâm dự Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống ngành giáo dục và khai giảng năm học mới 2025 - 2026. Ảnh: Lâm Hiển

Nghị quyết số 71 đã vạch ra những mục tiêu rất cụ thể cho giai đoạn này: đến năm 2030, giáo dục Việt Nam phải phổ cập kỹ năng công nghệ, trí tuệ nhân tạo và nâng cao năng lực tiếng Anh cho học sinh phổ thông. Điều này phản ánh tầm nhìn chiến lược: đưa những năng lực toàn cầu trở thành một phần trong văn hóa học đường, chứ không chỉ là kỹ năng bổ trợ. Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng đặt mục tiêu tăng trưởng mạnh mẽ số công bố khoa học quốc tế, số bằng sáng chế, coi nghiên cứu - đổi mới sáng tạo là trụ cột của giáo dục đại học.

Có thể thấy, văn hóa tri thức số chính là bước tiếp nối nguyên tắc “khoa học hóa” mà Đề cương văn hóa 1943 từng khẳng định. Khi đó, Đảng ta nhấn mạnh cần xây dựng một nền văn hóa mới dựa trên tinh thần khoa học, bài trừ mê tín, lạc hậu. Ngày nay, “khoa học hóa” được cụ thể hóa bằng số hóa tri thức, đưa công nghệ vào mọi hoạt động giáo dục để tri thức trở nên sống động, linh hoạt, phổ cập và hiện đại hơn.

Thực tế những năm qua, Việt Nam đã có nhiều bước đi trong chuyển đổi số giáo dục, nhất là trong giai đoạn dịch Covid-19 khi dạy - học trực tuyến trở thành giải pháp duy nhất. Tuy nhiên, để biến những bước đi đó thành một nền văn hóa học tập số bền vững, còn cần rất nhiều nỗ lực: đầu tư hạ tầng công nghệ đồng bộ từ thành thị đến nông thôn, đào tạo kỹ năng số cho đội ngũ giáo viên, đồng thời giáo dục học sinh ý thức sử dụng công nghệ văn minh, hiệu quả. Một nền văn hóa tri thức số chỉ thực sự hình thành khi học sinh, sinh viên biết tự học qua mạng, biết chọn lọc thông tin, và biết sáng tạo giá trị mới từ tri thức số.

Không chỉ thế, Nghị quyết số 71 còn khẳng định vai trò của tinh thần đổi mới sáng tạo trong giáo dục. Văn kiện yêu cầu các trường đại học, cao đẳng phải trở thành những trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, góp phần trực tiếp vào sự phát triển đất nước. Nghĩa là, từ trong nhà trường, phải hình thành một văn hóa sáng tạo, nơi sinh viên không ngại thử nghiệm cái mới, dám thất bại để rồi trưởng thành. Chính văn hóa này sẽ là động lực để giáo dục Việt Nam không chỉ theo kịp mà còn có thể tạo ra dấu ấn trong dòng chảy tri thức toàn cầu.

Như vậy, Nghị quyết số 71 đã mở ra một hướng đi rất rõ ràng: xây dựng văn hóa tri thức số và đổi mới sáng tạo như trụ cột của nền giáo dục mới. Đây chính là “động lực kép” - vừa giúp thế hệ trẻ Việt Nam tự tin hội nhập, vừa làm cho văn hóa Việt Nam trở nên năng động, sáng tạo và giàu sức sống trong thời đại số.

Giáo dục nhân cách – cốt lõi văn hóa con người trong kỷ nguyên mới

Nếu tri thức và công nghệ là “xác” thì nhân cách chính là “hồn” của nền văn hóa dân tộc. Một đất nước chỉ thực sự vững bền khi có những thế hệ công dân vừa giỏi chuyên môn, vừa sáng về đạo đức, sống có trách nhiệm với cộng đồng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” – lời nhắc nhở giản dị nhưng xuyên suốt cho đến hôm nay.

tbt7.jpg
Tổng Bí thư Tô Lâm cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống ngành giáo dục và khai giảng năm học mới 2025 - 2026. Ảnh: Lâm Hiển

Trong Nghị quyết số 71, Bộ Chính trị đã thẳng thắn chỉ ra hạn chế lâu nay của nền giáo dục: giáo dục đạo đức, lối sống, thể chất và thẩm mỹ chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả còn hạn chế. Đây là một điểm nghẽn cần được khắc phục, bởi nếu chỉ chú trọng “dạy chữ” mà coi nhẹ “dạy người”, xã hội sẽ phải đối diện với nguy cơ “thừa chuyên gia, thiếu nhân cách”. Văn kiện cũng nhấn mạnh yêu cầu coi trọng danh dự người thầy, phối hợp chặt chẽ gia đình – nhà trường – xã hội để giáo dục nhân cách thế hệ trẻ.

Liên hệ với bối cảnh hiện nay, đất nước đang bước vào giai đoạn tái cấu trúc toàn diện, sắp xếp lại đơn vị hành chính, tinh gọn bộ máy, chỉ còn 34 tỉnh, thành và mô hình chính quyền hai cấp. Đây không chỉ là sự thay đổi về địa giới hành chính, mà còn là cuộc sắp xếp lại nền tảng tinh thần của quốc gia. Một “giang sơn gọn hơn, mạnh hơn” đòi hỏi những công dân có bản lĩnh, có nhân cách để sống và làm việc trong một xã hội ngày càng minh bạch, kỷ cương và sáng tạo. Trong bối cảnh ấy, giáo dục nhân cách chính là trụ cột để củng cố sự đồng thuận xã hội và gắn kết cộng đồng.

Bởi lẽ, khi các địa phương được sáp nhập, những khác biệt về vùng miền, phong tục, lợi ích cục bộ có thể phát sinh. Chỉ có giáo dục nhân cách – với tinh thần nhân ái, đoàn kết, tôn trọng sự khác biệt – mới giúp thế hệ trẻ dễ dàng hòa nhập, tạo dựng niềm tin và ý thức trách nhiệm chung. Chính những con người “vừa hồng, vừa chuyên” sẽ là cầu nối gắn kết các cộng đồng, biến sự thay đổi hành chính thành cơ hội phát triển mới chứ không phải thách thức.

Một nền giáo dục nhân cách tốt cũng sẽ góp phần hình thành văn hóa pháp quyền – khi mỗi công dân hiểu quyền và nghĩa vụ, biết sống và hành xử theo luật. Đây là điều đặc biệt cần thiết trong giai đoạn hiện nay, khi Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng và hoàn thiện theo tinh thần Nghị quyết số 66 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Có thể nói, nếu Nghị quyết số 71 được triển khai quyết liệt, đưa giáo dục nhân cách trở thành ưu tiên hàng đầu, thì đó sẽ là lời đáp mạnh mẽ của văn hóa trước yêu cầu chấn hưng đất nước trong giai đoạn “sắp xếp lại giang sơn”. Nhân cách vững vàng, đạo đức trong sáng, tinh thần đoàn kết sẽ là nền tảng để mỗi người Việt Nam góp phần xây dựng một xã hội văn minh, bền chặt, gắn bó, bất kể địa giới hành chính có thay đổi ra sao.

Công bằng giáo dục – thước đo văn hóa trong xã hội

Một nền văn hóa tiến bộ không chỉ đo bằng thành tựu vật chất hay kho tàng di sản, mà trước hết phải được thể hiện trong tinh thần công bằng, bình đẳng xã hội. Trong đó, công bằng giáo dục chính là thước đo trực diện nhất. Bởi lẽ, giáo dục là con đường quan trọng nhất để mỗi con người vươn lên, thay đổi số phận và đóng góp cho đất nước.

z6911915638840_a80f61d80a864daa5974b7e97a1ea7c0.jpg
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn với các cháu thiếu nhi và Nhân dân xã Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang, ngày 16/8/2025. Ảnh: Lâm Hiển

Nghị quyết số 71 đề ra mục tiêu cụ thể: hoàn thành phổ cập mầm non cho trẻ 3–5 tuổi, phổ cập giáo dục bắt buộc hết THCS, ít nhất 85% người trong độ tuổi hoàn thành THPT (không tỉnh nào dưới 60%), và giảm chỉ số bất bình đẳng giáo dục xuống dưới 10%. Đây là những cam kết mạnh mẽ, thể hiện quyết tâm đưa ánh sáng tri thức đến từng vùng, từng miền, không để ai bị bỏ lại phía sau.

Công cuộc "sắp xếp lại giang sơn" mở ra những cơ hội phát triển mới, nhưng cũng đặt ra yêu cầu phải đảm bảo công bằng hơn trong phân bổ nguồn lực, đặc biệt là trong giáo dục. Những tỉnh mới hình thành sau sáp nhập có thể hội tụ cả vùng giàu và vùng nghèo, cả khu vực đô thị phát triển lẫn nông thôn khó khăn. Trong hoàn cảnh ấy, công bằng giáo dục trở thành “chiếc cầu văn hóa” để gắn kết cộng đồng, để mọi người dân – bất kể nơi nào, gốc gác nào – đều có cơ hội học tập và phát triển.

Công bằng giáo dục còn là lời khẳng định về bản chất nhân văn của chế độ ta. Đề cương Văn hóa Việt Nam 1943 đã nêu nguyên tắc “đại chúng hóa” – văn hóa, học thuật, nghệ thuật phải thuộc về quảng đại quần chúng. Hồ Chí Minh cũng đã làm điều đó từ những ngày đầu lập quốc, khi Người phát động phong trào “bình dân học vụ” để “dân tộc ta ai cũng biết đọc, biết viết”. Hôm nay, trong giai đoạn mới, tinh thần ấy lại vang lên trong Nghị quyết số 71: xây dựng một xã hội học tập mở, liên thông, công bằng và bình đẳng cho mọi người.

Ở tầm rộng hơn, công bằng giáo dục không chỉ thu hẹp chênh lệch vùng miền, mà còn khẳng định quyền phát triển cá nhân của mỗi công dân. Một xã hội công bằng là nơi học sinh giỏi có cơ hội phát huy tài năng, học sinh yếu được nâng đỡ để tiến bộ, học sinh nghèo có chỗ đứng ngang bằng với con em gia đình khá giả. Đó cũng là nơi trẻ em dân tộc thiểu số được học tiếng mẹ đẻ và tiếng phổ thông, nơi trẻ khuyết tật có cơ hội hòa nhập trong trường học. Công bằng giáo dục vì thế chính là công bằng văn hóa, làm nên sự tử tế và nhân văn trong đời sống xã hội.

Có thể nói, khi đất nước sắp xếp lại giang sơn, công bằng giáo dục càng phải được coi là nguyên tắc bất di bất dịch để bảo đảm sự gắn kết của cộng đồng dân tộc. Một “giang sơn gọn hơn, mạnh hơn” không chỉ cần bộ máy hiệu lực, hiệu quả, mà còn cần một thế hệ công dân được thụ hưởng công bằng giáo dục, cùng nhau tạo nên sức mạnh mới cho văn hóa Việt Nam.

Hội nhập giáo dục – mở rộng giao lưu, lan tỏa văn hóa và kiến tạo nguồn lực mới cho dân tộc

Trong thế giới phẳng hôm nay, không một nền giáo dục, không một nền văn hóa nào có thể phát triển biệt lập. Hội nhập trở thành con đường tất yếu, và giáo dục chính là cây cầu vững chắc nhất để Việt Nam vừa tiếp thu tinh hoa nhân loại, vừa giới thiệu, lan tỏa bản sắc dân tộc ra thế giới. Nghị quyết số 71 đã khẳng định rõ: phải phát triển giáo dục trên nền tảng giá trị truyền thống, đồng thời “tiếp thu tinh hoa nhân loại, chuẩn mực quốc tế; giáo dục công dân Việt Nam trở thành công dân toàn cầu”.

k1.jpg
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Giáo dục (sửa đổi) tại Phiên họp tháng 8/2025. Ảnh: Phạm Thắng

Đây không chỉ là định hướng cho ngành giáo dục, mà còn là một chiến lược văn hóa – con người. Một thế hệ trẻ vừa vững gốc Việt, vừa rộng mở với thế giới, chính là “nguồn lực mềm” để dân tộc vươn mình. Khi du học sinh Việt Nam tự tin học tập và thành công ở các trung tâm khoa học – công nghệ lớn, họ không chỉ mang về tri thức mà còn mang về uy tín cho đất nước. Khi sinh viên quốc tế đến Việt Nam học tiếng Việt, tìm hiểu văn hóa Việt, chính họ trở thành những “đại sứ văn hóa” lan tỏa hồn cốt Việt Nam khắp năm châu. Hội nhập giáo dục, vì thế, là con đường để văn hóa Việt Nam bước ra thế giới bằng đôi chân tri thức.

Điều đặc biệt là, Nghị quyết số 71 không chỉ nói tới việc mở cửa hội nhập, mà còn cảnh báo và định hướng: phải “bảo đảm an ninh văn hóa” trong quá trình này. Nghĩa là, hội nhập không phải là hòa tan. Chúng ta học cái hay, cái mới của thế giới nhưng không đánh mất bản sắc của mình. Chính sự cân bằng giữa “giữ” và “mở” này sẽ giúp Việt Nam vừa trở thành một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, vừa giữ vững được bản lĩnh dân tộc trong mọi biến động.

Có thể thấy, trong chuỗi 5 nghị quyết trụ cột vừa qua (Nghị quyết số 57, 59, 66, 68 và 71), Nghị quyết số 71 chính là mắt xích then chốt, bởi giáo dục chính là nguồn lực bên trong – xây dựng con người, vun bồi văn hóa. Các nghị quyết khác – về khoa học công nghệ, hội nhập quốc tế, nhà nước pháp quyền, kinh tế tư nhân – chính là nguồn lực bên ngoài. Khi nội lực và ngoại lực gặp nhau, chúng ta sẽ có sức mạnh tổng hợp để bứt phá. Và trong sức mạnh đó, văn hóa sẽ vừa là nền tảng, vừa là mục tiêu cho sự phát triển bền vững đất nước.

Nghị quyết số 71 vì thế còn là một "tuyên ngôn văn hóa mới" cho dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình, khẳng định rằng, muốn có một đất nước hùng cường, trước hết phải có con người Việt Nam phát triển toàn diện – có tri thức, có nhân cách, sống công bằng và sẵn sàng hội nhập. Khi triển khai đồng bộ Nghị quyết số 71 cùng các nghị quyết trụ cột khác, Việt Nam sẽ tạo ra nguồn lực văn hóa mới: một nền văn hóa vừa hiện đại, vừa đậm đà bản sắc, đủ sức đưa dân tộc tiến bước vững vàng.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Nghị quyết 71 – từ giáo dục đến chấn hưng văn hóa dân tộc
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO