Nghề rèn, phố Lò Rèn
Trên một đoạn phố Lò Rèn, Hà Nội chỉ dài 128m, có đến 20 số nhà là những bễ lò rèn của người quê gốc Hòe Thị. Đó là sắc thái làng nghề thật đặc biệt của Thăng Long trải qua mấy trăm năm vẫn còn đến hôm nay...

Địa chỉ số 1 phố Lò Rèn, phường Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội ngày nay tọa lạc ngôi Đình Lò Rèn. Khu vực này, đầu thế kỷ XIX là đất thôn Tân Khai, tổng Thuận Mỹ, huyện Thọ Xương. Xưa xa hơn, vào thế kỷ XVI đây là phần đất mở rộng của khu phố cổ ở Thăng Long thời Lê. Đình Lò Rèn do dân làng làm nghề thợ rèn lập nên để thờ tổ nghề rèn sắt. Theo truyền tụng, thời Hùng Vương, ở vùng châu thổ Sông Hồng có người họ Lỗ tên Cao Sơn, thông minh tuấn tú, giỏi võ nghệ lại ham thích các việc thủ công. Biết người Thục giỏi nghề rèn sắt, ông tìm đường sang học được các bí truyền của nghề đó, về nước cải tiến thêm, khiến nghề rèn không thua kém nghề rèn của họ, rồi đem dạy cho mọi người. Nước Nam có nghề rèn là do ông, nên sau khi ông qua đời, người làm nghề rèn tôn ông làm Tổ sư.
Trong lịch sử phát triển của Thăng Long thì sự phát triển của “36 phố phường” có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Như trong sách Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn đã viết: “Thời nhà Lý mới đóng đô ở Thăng Long, người bốn phương đã lũ lượt kéo đến, tụ họp, buôn bán...”. Diễn biến lịch sử cụ thể cho thấy, sau cải cách của Vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497), thế kỷ XVI và XVII, nền kinh tế của đất nước đã có bước phát triển lớn mạnh và bền vững, đặc biệt là nền kinh tế hàng hóa. Đáng kể là sự hình thành thêm và phát triển các làng nghề thủ công. Khi đó, Thăng Long đã trở thành một trung tâm hấp dẫn, khiến xuất hiện nhiều đợt di động lớn, đưa thợ thủ công từ các làng nghề về hành nghề tại phố phường Kẻ chợ. Cùng với một số nghề thủ công gốc ở Thăng Long, như nghề dệt ở Nghi Tàm, nghề giấy ở Yên Hòa, Yên Thái... có thêm nhiều nghề thủ công ở các vùng phụ cận được di chuyển vào, tạo nên “36 phố phường”. Đa phần, thợ thủ công các nghề vào Thăng Long đều tập trung ở khu vực phía Đông kinh thành. Ví dụ, nghề nhuộm đào từ Đan Loan, Hải Dương; Nghề thêu từ Quất Động, Thường Tín; Nghề kim hoàn từ Định Công, Thanh Trì và từ Đồng Xâm, Thái Bình; Nghề da giày từ Trúc Lâm, Hải Dương; Nghề tiện từ Nhị Khê và nghề rèn sắt từ Hòe Thị, Từ Liêm và Đa Hội, Đông Anh...
Nghề rèn sắt di chuyển vào Thăng Long gồm hai nhóm chính. Một nhóm khá đông đến lập nghiệp ở khu vực Tân Khai – Tân Lập còn nhóm kia thì kéo đến khu vực gần Cửa Nam, sau này là phố Sinh Từ. Nhiều năm sau, nghề rèn phát đạt, một số thợ đã đến Kim Mã, Hàng Bột, Ô Cầu Dền... Một số thợ rèn từ Hòe Thị đã đến Tân Khai – Tân Lập để định cư, hành nghề; Sau có thêm một số thợ các làng khác như Đa Sĩ, Đa Hội cũng đến đây, khiến vùng Tân Khai – Tân Lập có một hình ảnh điển hình là những bễ lò rèn và sản phẩm chính bày rất nhiều trước nhà. Do vậy, đầu thế kỷ XIX xuất hiện phố Hàng Bừa. Đến cuối thế kỷ XIX, người Pháp mở mang phố xá, nên nguyên vật liệu bằng sắt rất thông dụng, và suốt dãy phố nhà nào cũng có bễ lò rèn, phì phò hoạt động. Từ đấy xuất hiện tên phố Lò Rèn. Lúc phát triển nhất, thợ rèn Nam Định, Thanh Hóa cũng đến lập nghiệp ở phố Lò Rèn, có gần trăm bễ lò hoạt động, trong đó quá nửa là lò rèn của người gốc Hòe Thị. Và rồi, cũng như bao làng nghề, phường nghề khác, người dân phường rèn đã cùng nhau dựng một ngôi đình chung để thờ Tổ nghề và các vị khai công đầu tiên đưa nghề rèn lên Thăng Long lập nghiệp.
Trước kia, sản phẩm của người thợ rèn ở Lò Rèn gồm lưỡi cày, bừa, cuốc, liềm, hái, dao phát bờ, kéo... đáp ứng nhu cầu của dân kinh thành và các tỉnh. Dần dần, xã hội phát triển, người thợ rèn cũng không ngừng cải tiến mẫu mã, chất lượng và kỹ thuật. Đầu thế kỷ XX, thợ Lò Rèn, Hà Nội đã sản xuất bôlông theo đơn đặt hàng của công trình xây dựng đường sắt Hà Nội đi Vân Nam và Hà Nội đi Sài Gòn. Tất cả đồ sắt cho các công trình xây dựng công sở, các công trình văn hóa công cộng lớn đều do người thợ rèn ở Hà Nội làm. Nhiều mặt hàng công cụ người thợ rèn Hà Nội chế tạo đẹp và bền, như khoan, kìm, búa, chàng, đục... Thời kỳ cách mạng Tháng Tám 1945, Nghiệp đoàn thợ rèn đã được thành lập tại Đình Lò Rèn. Trong kháng chiến chống Pháp, các bễ Lò Rèn vẫn nổi lửa, người thợ vẫn làm ra những dụng cụ thiết yếu cho đời sống và những vật phẩm phục vụ kháng chiến, trong đó có các loại vũ khí thô sơ như lưỡi lê, kiếm để cung cấp cho quân đội, cho du kích. Đến năm 1954, tại Đình Lò Rèn đã có buổi lễ long trọng thành lập Liên đoàn thợ rèn. Mọi hoạt động của công nhân Liên đoàn thợ rèn đều được tổ chức tại Đình...
Trong thời kỳ phát triển kỹ thuật hiện đại, nhiều nhà ở phố Lò Rèn hiện vẫn giữ được nghề truyền thống. Trên một đoạn phố Lò Rèn chỉ dài 128m mà có đến 20 số nhà là những bễ lò rèn của người quê gốc Hòe Thị. Đó là sắc thái làng nghề thật đặc biệt của Thăng Long trải qua mấy trăm năm vẫn còn đến hôm nay. Nó không chỉ là giá trị kinh tế kỹ thuật, mà còn giá trị văn hóa lịch sử của Thăng Long – Hà Nội.
Anh Chi