Nghệ nhân ưu tú Trần Nam Tước: Tôi và nghiệp nghề đã thấu hiểu cho nhau

Qua bàn tay tạo tác, các sản phẩm gốm như thăng hoa kể chuyện, mở ra hành trình đặc biệt của người thợ tài hoa duy nhất không sinh ra tại làng nghề…

Đôi chân trụ vững trên nền văn hóa dân tộc

- Qua triển lãm “Linh thú thời nay” tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam tháng 8.2023, có cảm nhận những tác phẩm của anh không chỉ “đẹp” mà còn “hay”. Cái hay toát lên từ sinh khí của truyền thống, của văn hóa. Không biết anh đã làm việc với gốm như thế nào?

- Thực ra, tôi có một nguyên tắc làm việc, đó là không làm vì cái đẹp, không làm vì đúng - sai. Bởi cái đẹp thuộc về cảm xúc của người xem, đúng - sai thuộc về đánh giá của các nhà nghiên cứu, cái tôi làm chính là để người xem nhìn thấy văn hóa của dân tộc mình. Rất nhiều sản phẩm gốm tôi lấy cảm hứng từ các điển tích, xuất phát từ những câu chuyện truyền ngôn trong văn hóa dân gian. Có lẽ, điều mà bạn cảm nhận đến từ yếu tố như vậy.

- Nhận mình là thợ của làng nghề thủ công truyền thống nhưng anh coi gốm là bộ môn nghệ thuật. Suy nghĩ ấy đến từ đâu?

- Đối với tôi, lịch sử là nền tảng, văn hóa là tiếp biến, còn nghệ thuật là giao thoa. Gốm chính là kết tinh của sự giao thoa ấy và người làm nghề gốm phải dựa trên nền tảng dân tộc, tinh thần bản địa thì mới bền vững. Gốm với tôi không đơn thuần là bát, đĩa, ấm chén… mà chứa đựng câu chuyện tự ngàn năm. Như truyền thuyết về quả trứng rồng, trăm trứng nở ra 50 người con xuống biển, 50 người con lên non. Quả trứng ấy sinh ra một dân tộc có những người con anh hùng: Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử - Tiên Dung, Tản Viên Sơn Thánh, Lang Liêu, Mai An Tiêm… Cả ngàn năm, ông cha ta đã viết nên trang sử nhân văn, để lại những câu chuyện nói lên giá trị văn minh người Việt. Tôi khai thác, diễn giải nó theo lời kể của gốm. Hoặc ví dụ từ “chở che” ai cũng biết, tôi mượn lối bóc nghĩa của người xưa, tạo tác hai bức tranh gốm: một con vịt xòe cánh cho đàn con bậu trên lưng để qua sông là “Chở”; một con gà khi mưa xuống xòe cánh cho con là “Che”.

- Điều gì khiến anh tự tin rằng tạo tác gốm từ những điển tích, từ những câu chuyện vốn đã rất quen thuộc sẽ hấp dẫn công chúng?

- Ý tưởng mượn điển tích, câu chuyện lịch sử, truyền thuyết… còn ngẫu hứng bút pháp với gốm ra sao trong quá trình tạo tác là cái riêng. Tôi tin mình đang đặt đôi chân trụ vững trên nền văn hóa dân tộc. Giá trị của người xưa thay vì để nguyên trong sách, tôi mở ra một tiệm cận khác, góc nhìn khác, cho nó đời sống khác, thú vị hơn. Phong cách làm việc của tôi là bảo tồn và phát triển, tiếp biến những giá trị văn hóa của nhiều đời. Trong đời sống, giá trị dịch chuyển vô cùng quan trọng. Tất cả yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa… muốn phát triển thì đừng đóng khung.

- Nhưng trong truyền thống có quy tắc nhất định, tỷ lệ, đăng đối rõ ràng… Làm thế nào tư duy nghệ nhân có thể vượt qua để tạo ra sự dịch chuyển như thế?

- Trong làm nghề, tôi quan niệm nếu bảo tồn thì phải bảo tồn đến mức bảo thủ, còn lại hãy cho đất một đời sống mới, cho người làm gốm bầu không gian sáng tạo. Dù tôi là người rất hoài cổ nhưng không hoài cổ đóng đinh. Thời đại này, chúng ta cần cái cổ nhưng có công năng phù hợp, nếu đóng khung sẽ thành khiên cưỡng. Hơn nữa, gốm rất đặc biệt. Bạn tuân thủ đúng nguyên tắc, tỷ lệ… nhưng không thể biết chắc sản phẩm ra lò thế nào, lên màu ra sao, hình dáng có bị móp méo hay nứt vỡ không. Với gốm, bạn có thể gặt hái thành công ngoài tưởng tượng nhưng cũng có thể nhận thất bại, phải làm lại từ đầu.

Dám cả gan và dám chơi

- Được biết anh đến với gốm khá muộn. Cơ duyên đó thế nào vậy?

 Nghệ nhân ưu tú Trần Nam Tước tên thật là Trần Xuân Triều, sinh năm 1974 tại Kiến Xương, Thái Bình. Anh được xem là “đứa con lạc loài” của làng gốm Bát Tràng khi là người duy nhất được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú Bát Tràng nhưng không sinh ra ở làng nghề gốm này.

- Con đường đến với gốm của tôi hoàn toàn tình cờ. Tôi làm gốm từ khi còn thơ dại. Thuở nhỏ làm con vật bằng đất nung, chơi với nó song không nghĩ sau này sẽ làm gốm. Mãi năm 1997 tôi mới chính thức đến với làng Bát Tràng sau những năm tháng lang bạt làm xây dựng, điêu khắc đắp vẽ khắp nơi. Nhưng lúc ấy tôi cũng chưa hẳn làm gốm mà chỉ là tay thợ chuyên đúc khuôn cốt cho một số cơ sở ở làng nghề. Run rủi nghề lại dạy nghề, tôi bị cuốn hút say mê dòng men truyền thống của làng gốm, rồi quyết tâm chinh phục nó. Năm 2007, tôi chính thức làm lò gốm, song đến năm 2010 mới toàn tâm toàn ý với nghề.

- Bát Tràng với anh là một làng nghề, chốn dừng chân mưu sinh, hay còn là gì nữa?

- Nhớ ngày dừng chân ở làng nghề ven sông Hồng, ấn tượng đầu tiên của tôi là cảm giác lạ lẫm với một làng gốm. Khói bụi nhưng tôi lại rất thích. Tôi lang thang ngắm các ngõ nhỏ quanh co, khi người dân đốt lò than, khói tràn các ngõ. Tôi cầm chiếc máy ảnh bấm chụp hết các con ngõ đó. Nhưng tôi yêu Bát Tràng không chỉ là làng làm gốm, mà đây còn là làng khoa bảng, làng văn chương với bề dày lịch sử, văn hóa toát ra từ con người qua cách làm nghề, cách đối đãi, ứng xử với khách hàng, bạn bè… Đời người có hai chốn, nơi mình sinh ra và nơi mình sống. Tôi may mắn có cả hai chốn là quê hương.

- Tôi rất tò mò một người không sinh ra trong cái nôi của gốm thì khởi nghiệp với nghề gốm ra sao?

- Cả cuộc đời tôi chưa bao giờ bằng lòng với mình cái gì, tôi học hết nghề nọ đến nghề kia. Ngày đầu về Bát Tràng, tôi cứ tự tin là mình có tay nghề, rồi sẽ làm được những việc mà người khác làm được. Tôi không hiểu rằng nếu chỉ có tay nghề thì chỉ tạo ra hình dáng khuôn cốt đấy thôi, còn chơi với lửa không đùa được. Năm 1999 tôi đã mạnh dạn làm lò sản xuất, nhưng vì thiếu hiểu biết về nghề, tự tin thái quá mà gần như vỡ nợ. Lò gốm hỏng còn tôi trắng tay. Sang năm 2000, tôi xây dựng gia đình rồi quay lại Bát Tràng; từ Thái Bình, hành trang tôi mang theo là tình yêu của hai vợ chồng mới cưới, 43 nghìn đồng và gánh nợ hơn 30 triệu đồng. Tôi chỉ có suy nghĩ mất cái gì ở đâu thì lấy lại từ đấy.

- Khi quyết định gắn bó với nghiệp gốm Bát Tràng, anh làm thế nào để định vị mình giữa những nghệ nhân của làng nghề truyền thống lâu đời này?

- Thực ra từ trước tới giờ tôi chưa bao giờ định vị mình là một nghệ nhân, cũng không định vị mình đang ở đâu, sánh với ai, mà tôi định vị mình đang làm cái gì. Tôi tập trung vào 3 thứ: linh vật, điêu khắc về các anh hùng dân tộc và gốm trang trí kiến trúc. Cách làm của tôi được nhiều người bảo gần với phong cách của nghệ sĩ. Tôi lại không quan tâm mình là nghệ nhân hay nghệ sĩ nhưng hiểu được thế nào là nghệ nhân, thế nào là nghệ sĩ. Nghệ nhân làm việc bằng thói quen, nghệ sĩ sáng tạo bằng tư duy, tôi kết hợp cả hai, làm sao sản phẩm tiệm cận nhu cầu thị trường. Tất nhiên, việc này không hề an toàn, không giống làm ấm chén hay bát đĩa có định mức, quy tắc, làm gốm theo kiểu của tôi phải cả gan và dám chơi. Nhưng như tôi đã nói, muốn vượt lên thì phải vượt dòng.

- Nhìn lại chặng đường gắn bó, vượt dòng với nghề, tuy không dài nhưng đủ thăng trầm ấy, anh thấy mình nhận được gì?

- Gốm cho tôi cảm xúc, cho tôi câu chuyện để gửi gắm vào nó. Làm gốm với tôi chính là cho gốm một số phận, để tôi và gốm cùng chuyến ngược dòng. Như cảm xúc khi bạn đóng cửa lò và chờ đợi, mong mỏi, có lúc òa lên sung sướng, có lúc tủi thân, đau khổ. Nhưng năm tháng cuộc đời gắn với gốm, tôi và nghiệp nghề đã thấu hiểu cho nhau!

- Xin cảm ơn anh!

Văn hóa - Văn nghệ

Giải mã hình rồng thời Lý từ cội nguồn và thần thái Đông Sơn
Văn hóa - Văn nghệ

Giải mã hình rồng thời Lý từ cội nguồn và thần thái Đông Sơn

Cho đến nay, với cái nhìn so sánh bằng cả con mắt và trái tim, có thể khẳng định, những hình rồng ở chùa Phật Tích, Bắc Ninh được tạo ra vào thời Lý Thánh Tông (trị vì 1054 - 1072) là những hình rồng đẹp nhất, hài hòa và sống động nhất trong các hình rồng thời Đại Việt. Về hình rồng này đã có nhiều cách lý giải; nhưng năm nay, chúng ta sẽ giải mã nhìn từ cội nguồn và thần thái Đông Sơn.

Vén mây đón rồng
Văn hóa - Văn nghệ

Vén mây đón rồng

“Trong 12 con giáp, rồng có vị trí đặc biệt, biểu hiện cho vật tổ của người Việt. Chúng tôi chọn chủ đề Vén mây đón rồng là để nhắc nhớ nguồn gốc của người Việt, tự hào nòi giống Rồng - Tiên, chuẩn bị sẵn sàng để nắm bắt cơ hội đưa đất nước hóa rồng”, nhà thiết kế Trần Thanh Tùng, người sáng lập Hội quán Di sản, chia sẻ.

Giữ cho mạch nguồn sống mãi theo thời gian
Văn hóa - Văn nghệ

Giữ cho mạch nguồn sống mãi theo thời gian

PGS.TS. Nguyễn Thế Kỷ - Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam; Chủ tịch Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương

Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là một loại hình nghệ thuật trình diễn ca hát bình dân  được hình thành và phát triển từ nhiều đời nay ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh - một vùng văn hóa đặc sắc của đất nước Việt Nam, là hành trang tinh thần quý giá, vừa gần gũi, vừa thiêng liêng để người xứ Nghệ trân trọng và lưu giữ, lưu truyền trong tâm thức, hành vi để đi tới tương lai. Từ di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia, ngày 27.11.2014, Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được Ủy ban Liên chính phủ Công ước UNESCO phiên họp thứ 9 vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Nghệ sĩ Nhật yêu sơn mài và yêu Việt Nam
Văn hóa - Văn nghệ

Nghệ sĩ Nhật yêu sơn mài và yêu Việt Nam

Ấn tượng với độ bóng, sự trong suốt và màu cánh gián tự nhiên của sơn mài, nữ nghệ sĩ Nhật Bản Saeko Ando dành trọn tình yêu cho nghề sơn truyền thống và nghệ thuật độc đáo của Việt Nam gần 30 năm qua. Quá trình tìm hiểu, góp phần gìn giữ, quảng bá vẻ đẹp chất liệu này cũng là thời gian cô gắn bó, trở nên thân thuộc với cuộc sống, con người và thiên nhiên đất Việt.

Miếng ngon Ước Lễ
Văn hóa

Miếng ngon Ước Lễ

Miếng chả quế thơm bùi mùi thịt nạc nướng, hương cay của quế chi, hương ngọt của mật ong, lại phảng phất mùi thơm quý phái của hoa hiên. Ăn vào mà cứ xuýt xoa: "Sao các cụ nhà mình khéo thế, khảnh ăn thế không biết!...".

Đường Sách
Văn hóa

Đường Sách

Năm năm qua, ở đây tôi đã có những ngày giáp Tết thật vui bên bạn bè trên con đường này. Đã cùng bạn đưa hai nhà văn Nhật Tiến và Đỗ Phương Khanh đi dạo, xem sách trong ánh nắng tháng Giêng chỉ vài năm trước khi ông bà khuất núi...

Dẻo thơm Tranh Khúc
Văn hóa

Dẻo thơm Tranh Khúc

Bánh chưng Tranh Khúc trong hàng chục năm qua, vào mỗi dịp giáp Tết đã được đóng hàng chuyển sang Pháp, Mỹ và một số nước châu Âu khác. Hương thơm của hạt nếp quê nhà hẳn sẽ làm ấm lòng bà con người Việt xa xứ khi mỗi mùa xuân đến.

Ao chuôm - Một mảnh hồn làng
Văn hóa

Ao chuôm - Một mảnh hồn làng

Vui nhất là những dịp tát ao vào cuối tháng Chạp để ăn Tết. Khi lệnh cho "hôi cá" được phát ra, cả đám đông từ các bờ ao tràn xuống, tay bắt, tay nơm, tay vợt…, rồi nở nụ cười sảng khoái khi bắt được “chiến quả”...

Nhớ thương phố Đán
Văn hóa

Nhớ thương phố Đán

Chiều 27 Tết của một năm học nào đó, tôi đi bộ dọc đoạn đường từ Vùng cao Việt Bắc tới vượt dốc Thiếu Sinh Quân như một lời tạm biệt để mai về nhà. Học sinh - sinh viên về nghỉ Tết nên đoạn đường này hiện rõ sự vắng vẻ, im ắng. Ngang qua chợ Tiến Ninh, cô hàng quen ngỡ ngàng hỏi: "Ô, sao chưa về nghỉ Tết?"...

Mèo nghênh Xuân
Văn hóa

Mèo nghênh Xuân

Từ rực rỡ trên nền giấy điệp, đến phong phú dáng hình, họa tiết trong tác phẩm điêu khắc, thiết kế... hình tượng mèo - linh vật của năm mới Quý Mão 2023 đã được các nghệ sĩ sáng tạo đầy sắc màu.

“Lọ lem xỏ giày thủy tinh lấp lánh”
Văn nghệ

“Lọ lem xỏ giày thủy tinh lấp lánh”

Làm thế nào để ở Việt Nam mà làm phim đến được Oscar? Có người đã đặt câu hỏi như thế khi Những đứa trẻ trong sương (Children of the Mist) của Hà Lệ Diễm lọt vào danh sách 15 phim tài liệu dài xuất sắc nhất Oscar 2023.

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài...
Văn hóa

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài...

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An. Câu ca xưa vẫn văng vẳng đâu đây khi nhắc về vẻ đẹp, cốt cách người Hà Nội, để rồi trở thành đường dẫn truyền tải thông điệp sâu sắc trong bộ phim cuối cùng của đạo diễn, NSND Đặng Nhật Minh.

Đi dưới hào quang di sản
Du lịch - Thể thao

Đi dưới hào quang di sản

Bằng tâm huyết của mình, các chuyên gia, người làm văn hóa đã và đang góp phần chữa lành những "vết thương" do thời gian, khí hậu gây ra, để di sản hiện hữu trong xã hội đương đại với gần như trọn vẹn giá trị nguyên bản.