Ngày cuối (Phần cuối)
Truyện ngắn của Đoàn Lê

Người thiếu phụ đeo kính đen xuống ga Hải Dương. Ông ngơ ngác như người vừa đánh mất vật gì. Và toa tàu trở nên trống vắng. Trên mặt cái bàn gỗ nhỏ giờ chỉ còn lại đôi ba mảnh vỏ lựu bắt đầu thâm tái. Xin vĩnh biệt những hạt lựu đẹp! Cuộc đời thế cả. Người ta đi chung với nhau một quãng đường nào đó rồi mỗi người lặng lẽ xuống ga của mình, để lại sự cô đơn cho người chưa xuống... Không chịu nổi nỗi trống vắng thuở ấy, ông đã phải bỏ Hải Phòng lên Hà Nội ngay từ năm bảy sáu. Bảy bảy ông lấy vợ, con gái thủ trưởng, như số phận an bài...
Cuốc bộ tới cuối phố Ga, ông đã về tới nhà ông bạn già. Bây giờ gian mặt tiền lão ta bày bán mấy tờ báo. Chắc lại tìm cách xem chạc báo chí hơn là buôn bán kiếm lời.
- Chào nhà thơ. Mấy tờ báo bày kia chứng tỏ tư duy có thay đổi hơn lần trước mình xuống thăm đấy nhỉ.
- Ông đừng gọi tôi là nhà thơ nữa. Bây giờ nhiều quá đâm nhàm. Đã định ghi biển treo rằng: Xin bỏ guốc dép... và thơ ở ngoài cửa như người ta vẫn giễu đấy.
- Sao vậy?
- Ông không nghe mấy anh nhà thơ Hà Nội tuyên bố kỳ này mở Trung tâm Cai nghiện... thơ đấy à? Nghĩa là đã thành dịch ông ạ. Nhưng tôi mời ông về chơi Hải Phòng không phải chuyện thơ. Chuyện này lại chả thơ tí nào.
Chờ ông nghỉ ngơi rồi, ông bạn già mới lấy từ tủ sách một bọc giấy gói hai tập sổ tay nhỏ, mép đã sờn bẩn, đặt lên bàn nước trước mặt ông.
- Ông biết gì đây không? Nguyệt đấy!
Nguyệt đây? Ông ngỡ bị một nhát đập, choáng người. Nguyệt? Trách nào suốt chuyến tàu về Hải Phòng linh tính xui ông chỉ nghĩ tới nàng.
- Chẳng lẽ ông không nhớ Nguyệt ư?
Thấy ông ngồi lặng đi, nhà thơ đai giọng hỏi. Ông nghe tiếng mình trả lời thì thào hụt hơi như của một người nào khác:
- Sao tôi quên được cô ấy. Chỉ vì... chỉ vì quá đột ngột ông ạ.
Ông trân trối nhìn hai cuốn sổ không dám đụng tay vào. Vẫn cái giọng thì thầm xa vắng, ông lại hỏi:
- Nguyệt chết rồi ư?
- Không. Lúc cô ấy gặp tôi vẫn còn khỏe, tuy rằng khác trước đến mức khó lòng nhận ra. Cô ấy mặc áo nhà chùa, nhưng không cho biết trụ trì ở chùa nào. Nghe kể đã xuống tóc ăn mày cửa Phật lâu lắm rồi, từ năm chín bảy... khi thằng con trai ông nó chết.
- Ông nói sao? Ai chết? Con trai nào?
Ông bật dậy khỏi ghế. Lồng ngực bỗng nhói đau. Ông vội rút ngay lọ thuốc trợ tim, run rẩy mở nắp. Ông bạn nhà thơ hốt hoảng tái dại, còn run hơn cả ông, vội rót ngay cốc nước lọc đưa tận tay và dìu ông ngồi xuống.
- Chết thật, tôi xin lỗi. Chút nữa tôi hại ông. Bình tĩnh lại đi.
Ông uống viên thuốc trợ tim. Bỗng dưng ông mệt không thể tả, tựa đầu vào cái gối mềm mà ông bạn vừa kê cho sau gáy... Khi thằng con trai ông nó chết. Thế nghĩa là sao? Chuyện gì đây?
- Nghỉ ngơi rồi hãy đọc. Hai tập nhật ký của Nguyệt, cô ấy nhờ tôi đưa tới tận tay ông. Nghe đâu cô ấy có dấu hiệu bị ung thư vú. Tôi nghĩ vì thế cô ấy mới nói mọi chuyện với ông để sau này cô ấy mệnh hệ gì ông cũng biết phần mộ con ông mà chăm nom.
Đúng nét chữ quen thuộc của Nguyệt, nét chữ tròn trịa, đều tăm tắp. Thần kinh ông căng lên. Ông hối hả lướt mắt trên từng tờ giấy hoen ố, mà đích thị chúng nhòe nhoẹt phần lớn do nước mắt của nàng.
Nguyệt đã không đi bệnh viện phá bỏ cái thai. Bán nhà xong, hai bố con nàng lẳng lặng ra Quảng Ninh mở một cửa hàng tạp hóa nhỏ trên đường đi Mông Dương để sinh sống với một bà cô họ không chồng. Nàng đẻ một bé trai đặt tên Ngưyễn Hoàng Đức. Hoàng là họ ông. Ít lâu sau bố nàng mất. Hai người đàn bà cùng đứa bé lủi thủi bên nhau. Rất nhiều người muốn gắn bó nhưng nàng đều từ chối. Ít lâu sau bà cô cũng mất nốt, nàng một mình nuôi con ăn học, xây được ngôi nhà cấp bốn với một đời sống tằn tiện.
Mãi năm bảy bảy, khi ông lấy vợ nàng mới tìm được ông. Trong nhật ký nàng viết: Muộn rồi con ạ. Tìm được cha con, mẹ đứng chết sững trước cửa ngôi nhà đang nổ pháo cưới. May không gặp ai. Vâng, cô dâu xinh lắm, người ta xì xào vậy. Con một ông đại tá cơ. Vậy là tất cả đã chấm hết... Chấm hết những thổn thức xót xa bao đêm khóc thầm. Mẹ xin hứa với con, mẹ sẽ chôn chặt quá khứ lại. Người ta đã quên mất có mẹ trên đời này cơ mà. Ừ thì thôi, cũng như trước đây mẹ đã âm thầm chịu đựng để giữ trọn vẹn cho kẻ ấy được thênh thang thỏa mãn với con đường công danh sự nghiệp!
Kể từ đó Nguyệt không rời khỏi sườn đồi quạnh hiu với ngôi quán bán sách báo.
- Tôi xin thề với ông, tôi đã hết lòng dò la tin tức của Nguyệt, biết bao nhiêu năm mà không có kết quả. Thì chính ông biết đấy.
- Tôi cũng nói với Nguyệt như vậy. Cô ấy nói trước bảy lăm không nhận đựợc tin ông, cô ấy đồ chừng ông hy sinh ở chiến trường không trở về nữa. Sau này biết tin, tìm được ông thì ông đã đa mang vợ con, Nguyệt chịu đau khổ một mình. Tôi cũng không ngờ Nguyệt sinh cho ông một đứa con trai. Theo Nguyệt kể có lần nó đi tìm gặp ông. Nhưng cũng là lần thật bất hạnh cho nó.
Đầu óc ông ong ong như có làn sương mù lẩn quất. Ông cố gắng bắt lấy ý nghĩa những câu nói của bạn, chỉ sợ bỏ sót điều gì.
Nguyệt đã nuôi thằng Nguyễn Hoàng Đức khôn lớn thật vất vả. Cho đến năm học lớp mười một, Đức bỗng phát hiện trên báo đăng bài viết chân dung ông cùng một tấm ảnh thời trẻ trai. Nó nhận ra ngay con người này cũng chính là người chụp chung đôi với mẹ trong một tấm ảnh cũ kỹ. Đây là bố con. Nhưng bố đi bộ đội, đã hy sinh ở ngoài chiến trường. Nó lẳng lặng bỏ học trốn về Hà Nội, lần theo địa chỉ trên báo đi tìm.
- Sao cháu muốn gặp bác?
- Cháu tình cờ đọc báo thấy ảnh bác, cháu rất khâm phục chiến công của bác.
- Cháu đang sống ở đâu? Bố mẹ cháu làm gì?
- Cháu đang sống với mẹ. Bố cháu thì... Ông ấy bỏ rơi mẹ con cháu từ khi cháu chưa ra đời. Sao có người bố nhẫn tâm thế bác nhỉ? Liệu bác có thể bỏ rơi con mình không hả bác?
- Nếu người ấy là quân của bác, chắc bác bắn bỏ.
- Cháu cũng không chấp nhận ông ta, cho dù ông ấy có là triệu phú. Không bao giờ cháu tha thứ cho ông ấy...
Ông nhớ ra rồi. Một cậu khoảng mười sáu tuổi trông mặt mũi thông minh, đôi mắt chằm chằm nhìn xoi mói. Hai ba hôm ông luôn thấy nó luẩn quẩn xuất hiện quanh khu vực nhà ông, có khi lẫn trong đám trẻ đánh giày. Nhưng nó luôn để mắt quan sát ông rất lạ. Nhất định thằng bé này có ý đồ gì không muốn để lộ. Một lần ông gọi nó lại, cho ít tiền, bắt nó trở về nhà. Lang thang thế này sớm muộn cũng hư người đấy cháu ạ. Ông nhớ không lầm thì nó nói nhà ở tận Quảng Ninh.
Rồi bẵng đi ít lâu không thấy lũ trẻ đánh giày lẫn thằng bé. Hỏi ra mới biết lũ trẻ đánh nhau vì tranh cướp địa bàn làm ăn, một đứa không may bị chết. Tất cả đều được đưa vào trường giáo dưỡng trẻ vị thành niên, kể cả thằng bé ông quen. Ông thở phào nhẹ nhõm. Thế lại may cho nó.
Bốn năm sau nó trở về đã thành kẻ có tiền án tiền sự. Thằng Đức giờ trở nên lầm lì. Em xót xa vô cùng anh ơi. Hay em đi tìm anh, nói tất cả sự thật để anh có cách gì níu giữ con anh. Nhưng nghe nó kể một cách hằn học căm giận về cuộc sống đầy đủ giàu sang của gia đình anh, em run sợ bỏ ngay ý định. Nó không tha thứ cho anh, em biết thế.
Đứa con trai ấy dù thế nào cũng là nguồn sống của Nguyệt.
Tòa án Huyện trông thân mật tựa phòng họp Hội nghị thi đua của một hợp tác xã gì đó, nếu không có bốn phạm nhân bị xích tay vừa từ nơi tạm giam đưa về. Ba bị cáo mắc tội đánh bạc tái phạm, và can tội chống lại người thi hành công vụ. Con phong phanh chiếc áo tù sọc xám giữa lúc trời rét cắt ruột, ngồi hàng ghế trên cùng với ba phạm nhân kia. Hai mươi bị cáo khác được tại ngoại, do đánh bạc lần đầu và chưa có tiền án tiền sự như con thì ngồi hai hàng ghế sau nghe xét xử. Nghe đâu chủ sòng đút lót bốn chục triệu nên không hề hấn gì. Chỉ khốn khổ những đứa không có tiền đút lót thôi con ơi!
Mẹ không chú ý lắm đến bản cáo trạng người ta đọc. Mẹ chỉ mong ngóng tới lúc các thẩm phán vào phòng nghị án. Khi đó tòa sẽ nghỉ giải lao. Bốn gia đình phạm nhân đều đã góp tiền thuốc nước lo lót cho công an áp tải để họ cho phép bốn bị cáo được gặp gia đình trò chuyện, chăm nom nhau. Cả bốn gia đình trong đó có mẹ đều được ngầm thông tin rằng đó là thời điểm quan trọng, cần nhanh nhẹn nhét vàng hoặc tiền mệnh giá cao vào những quả chuối cho phạm nhân nuốt. Những thứ đó khi vào đến trại giam chính thức, phạm nhân phải tìm cách nôn ra, đưa nộp theo luật rừng trong nhà tù. Có vậy mới không bị đánh đập ngược đãi.
Sau hai tháng không biết tin tức, giờ mẹ được ngồi sát bên con, được nắn cánh tay trở nên gày guộc của con, cả hai mẹ con lau nước mắt không kịp. Con kể rằng chỉ ngồi ké bên đám bạc, chờ bọn đàn anh sai phái đổi tiền hoặc chạy đi cầm bán hộ. Khi bị vây bắt con cố thoát thân, xô xát với công an nên tội càng nặng. Mẹ giận con bao nhiêu lại thương con bấy nhiêu. Chao ôi, thà mẹ đừng sinh con ra. Nếu số phận con phải vướng hết tai ách này đến tai ách khác thì thà con đừng có mặt trên đời này còn hơn.
- Hay mẹ tìm tới bố con, xem ông ấy có cách gì...
- Không, mẹ làm thế con tự sát đấy. Ông ấy đâu phải bố con.
Hàng tháng trời Nguyệt mơ những giấc mơ thật khủng khiếp. Thằng Đức nằm co quắp trên sàn xi măng nhà tù, dớt dãi lẫn máu đầy miệng, một ca nước xà phòng ngầu bọt đặt bên cạnh. Nó không nôn chỉ vàng ra được. Một đôi chân gân guốc đá thật mạnh vào bụng thằng bé khiến nó lật sấp xuống. Lần này bụm máu to tướng vọt khỏi miệng nó. Thằng Đức nằm lịm...
Ông ôm lấy mặt, không thể tiếp tục đọc nổi dòng nào nữa. Tấm ảnh thằng bé xinh xắn bụ bẫm đang ôm con chó trắng trong lòng được dán vào giữa cuốn nhật ký hiển hiện trước mắt ông. Nó đấy ư? Con trai ông đấy ư? Cái miệng nó sao giống ông đến thế mà ông không nhận ra? Đáng lẽ ông có quyền tự hào rằng ông vẫn có kẻ nối dõi tông đường, không tuyệt tự cơ đấy.
Nhưng tất cả đã vuột mất rồi. Đức luôn luôn tìm cách trốn trại giam để rồi bị bắt lại, lĩnh thêm án. Lần cuối cùng người ta tin cho Nguyệt biết nó chạy trốn trong đêm, rơi xuống vực chết.
Nó rơi xuống vực hay bị đập chết như một con chó? Tội nghiệp con ơi, con có biết đã hai lần mẹ tuyệt vọng tìm đến con người ấy, định bụng cầu cứu. Nhưng cứ gần đến nhà, nghĩ tới lời con, mẹ lại nghẹn ngào, lê bước quay về.
Con đừng oán hận ai. Chỉ mẹ có tội với con thôi. Mẹ sẽ mang theo hình ảnh cái thân xác bầm giập của con tới ngày nhắm mắt, như một sự trừng phạt, nếu như mẹ có thể nhắm được mắt trong giây phút ra đi...
Sau cái chết của thằng Đức, Nguyệt bỏ đi tu. Đức chết năm chín bảy khi nó mới hăm lăm tuổi đời.
Ôi, con trai ơi, con của bố ơi!
Ông nhà thơ đun xong ấm nước rót vào phích. Khi quay lên nhà ông thấy bạn úp mặt vào hai bàn tay gục xuống bàn, cuốn nhật ký rơi dưới chân. Hơi một chút nghi ngại, ông khẽ lay gọi... nhưng người ấy không bao giờ nghe thấy tiếng gọi thảng thốt của ông bạn nữa!