Ngành, nghề nào bị cấm ngành, nghề nào là đầu tư kinh doanh có điều kiện
Cho ý kiến về một số vấn đề lớn còn ý kiến khác nhau của dự án Luật Đầu tư (sửa đổi), nhiều thành viên UBTVQH nhất trí cho rằng chúng ta đã đặt ra yêu cầu, mục tiêu đúng đối với Luật này là phải tạo những điều kiện thuận lợi nhất, công khai, bình đẳng nhất cho hoạt động đầu tư, kinh doanh. Nhưng cách quy định trong dự thảo lại chưa đáp ứng được những tiêu chí, điều kiện này. Các ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh là gì và ngành, nghề nào là đầu tư kinh doanh có điều kiện - hai trong những nội dung rất quan trọng nhằm cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp 2013 công dân được quyền tự do kinh doanh những ngành nghề pháp luật không cấm, song lại chưa được thể hiện rõ trong dự thảo. Luật Đầu tư trước hết phải quy định trực tiếp những ngành, nghề nào bị cấm đầu tư kinh doanh và ngành, nghề nào là đầu tư kinh doanh có điều kiện.
Phó chủ tịch QH Uông Chu Lưu: Hạn chế quyền tự do kinh doanh thì phải do luật hay cả pháp lệnh, nghị định…?
Về các ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh ở Điều 5 và Điều 6 là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Đây là 2 điều có nội dung rất quan trọng của dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) này theo tinh thần tiếp tục đổi mới điều kiện, thủ tục của đầu tư để có thể tạo ra một động lực cho việc đầu tư mới, phát triển kinh tế-xã hội. Nhưng 2 điều này theo như giải trình thì có lẽ chúng ta phải tính thêm.
Một là, Điều 5, ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh ở đây ta bám sát Điều 14 và Điều 33 của Hiến pháp năm 2013 với tinh thần là: công dân được quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Luật này trước hết phải quy định trực tiếp những ngành, nghề nào đầu tư kinh doanh bị cấm...
Hai là, Điều 6, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Hiện nay pháp luật chuyên ngành cũng đã có quy định về những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, ví dụ như luật về tín dụng, ngân hàng, chứng khoán, khám, chữa bệnh... Nhưng bây giờ ta phải rà soát một lần nữa những điều kiện hạn chế kinh doanh đó còn hợp lý nữa hay không, có phù hợp với tình hình mới, điều kiện mới nữa hay không, có phù hợp với tinh thần của Hiến pháp? Chỗ này chúng ta cũng đang để lại chưa xác định rõ các loại điều kiện đó hạn chế như thế nào.
Bây giờ mình nói những ngành, nghề hạn chế kinh doanh thì cơ quan nào có thẩm quyền: QH, UBTVQH, kể cả Chính phủ và các bộ? Ở khoản 1, Điều 6 dự thảo Luật quy định là luật, pháp lệnh, nghị định, tức là có 3 chủ thể có quyền hạn chế đầu tư vào kinh doanh. Theo Điều 14 Hiến pháp thì những trường hợp hạn chế quyền tự do kinh doanh vì những lý do quốc phòng, an ninh phải do luật định. Chỗ này đề nghị UBTVQH bàn thêm. Có phải bây giờ hạn chế quyền tự do kinh doanh thì phải do luật hay kể cả pháp lệnh, hay kể cả nghị định? Đây là vấn đề cần phải trao đổi.
Một vấn đề nữa, ở khoản 4, Điều 6 quy định đối với ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, nhà đầu tư chỉ được thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh khi có đủ điều kiện và bảo đảm đáp ứng các điều kiện đó trong toàn bộ quá trình hoạt động đầu tư kinh doanh. Quy định thế này tinh thần thì rất chặt, rất hợp lý nhưng quy định trong Luật thì rất khó thực hiện, bởi vì sẽ không có một cơ chế đánh giá, xác định bảo đảm đáp ứng các điều kiện đầu tư kinh doanh trong toàn bộ quá trình hoạt động đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư. Trong Luật chỉ nên quy định những điều kiện mà khi đủ điều kiện đó thì sẽ cho hoạt động đầu tư kinh doanh, chứ để yêu cầu người ta thực hiện điều kiện đó như thế nào trong toàn bộ hoạt động đầu tư kinh doanh thì rất khó. Sau này ta kiểm tra, thanh tra nếu như nhà đầu tư không đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của Luật này thì lúc đó ta có quyền xử phạt, có quyền dừng, có quyền không cho họ kinh doanh nữa. Nếu để cả 2 điều kiện này phải đáp ứng cùng một lúc ta mới cấp phép cho họ hay mới cho họ đầu tư thì không khả thi. Đề nghị phải cân nhắc quy định này, nếu không sau này dễ tạo ra cái bẫy để gây phiền hà cho nhà đầu tư.
Khoản 5, Điều 6 quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh theo khoản 4 Điều này phải bảo đảm các yêu cầu sau: “b) Cần thiết để bảo hộ ngành nghề, doanh nghiệp trong nước hoặc để thực hiện các yêu cầu quản lý đối với hoạt động đầu tư nước ngoài”... Tức là ở đây lại tạo ra một sự bảo hộ và phân biệt đối xử và mâu thuẫn với khoản 1, Điều 9 của dự thảo Luật. khoản 1, Điều 9 quy định: “Nhà nước bảo đảm đối xử không phân biệt giữa các nhà đầu tư trong nước, giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài và giữa các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động đầu tư phù hợp với điều ước quốc tế”. Nếu ta để ở điểm b của khoản 5 thì tạo ra một sự bất bình đẳng và phân biệt đối xử.
Điểm c: “Thủ tục hành chính là để tuân thủ điều kiện đầu tư kinh doanh phải đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện” là đúng, tôi đồng ý, nhưng nói là không phiền hà quá mức cần thiết, phải chăng phiền hà chưa đến mức cần thiết thì được? Chỗ này không biết cơ quan soạn thảo thể hiện ý tứ thế nào? Chúng ta công khai, minh bạch, thuận lợi, đơn giản nhưng cách viết tạo ra một kẽ hở: những trường hợp phiền hà thì vẫn được nhưng quá mức thì không được là không nên. Đề nghị xem lại.
Điều 7, công bố danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, ở đây tôi hiểu là bây giờ đúng là không thể liệt kê hết vào trong Luật này các điều kiện để kinh doanh đầu tư. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây, tôi có xem cả điều khoản thi hành nhưng cũng không thấy nói khi nào Chính phủ công bố danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Theo nguyên tắc công khai, minh bạch thì phải công bố trước thời điểm Luật này có hiệu lực để các nhà đầu tư biết, tính toán được tính ổn định của Luật. Người ta đầu tư vào ngành, nghề, đầu tư vào lĩnh vực gì, có nên đầu tư hay không đầu tư là phải biết. Bây giờ dự thảo viết thế này, một là chưa rõ lúc nào mình rà soát xong và Chính phủ sẽ công bố; hai là cũng không bảo đảm tính minh bạch. Thực ra yêu cầu, mục tiêu chúng ta đặt ra đối với Luật này là rất đúng, phải tạo những điều kiện thuận lợi nhất, công khai, bình đẳng nhất, nhưng cách quy định như dự thảo không đáp ứng những tiêu chí, những điều kiện như vậy.
Điều 12, dự thảo Luật ghi “bảo đảm đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật” thì trường hợp nào được hồi tố, trường hợp nào không hồi tố, giải quyết hậu quả đó thế nào? Nhưng tôi phân vân về khoản 5, Điều 12: “quy định tại khoản 2 và 3 điều này không áp dụng trong trường hợp thay đổi quy định của văn bản quy phạm pháp luật vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, bảo vệ môi trường”. Tại khoản 2, khoản 3, dự thảo Luật quy định những trường hợp áp dụng được hiệu lực hồi tố hoặc không áp dụng hiệu lực hồi tố và hậu quả đó. Nhưng khoản 5 lại nói thế này thì không hiểu được là nếu như vì lý do an ninh, quốc phòng, vì lý do trật tự an toàn xã hội, vì đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, bảo vệ môi trường mà bây giờ cấm hoặc hạn chế không cho người ta tiếp tục đầu tư thì hậu quả đó mình có giải quyết theo khoản 2, khoản 3 trên này không? Chỗ này đang để lỏng. Đây là những nội dung rất quan trọng. Đề nghị cơ quan soạn thảo phải rà soát rất kỹ.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc K’sor Phước: Cũng là địa bàn đặc biệt khó khăn nhưng phải quy định rõ với những loại nào mới khuyến khích đầu tư và những loại nào phải có điều kiện
Vừa qua, Hội đồng Dân tộc giám sát việc thực hiện ưu đãi đầu tư giữa các địa bàn khó khăn và đặc biệt khó khăn. Tôi thấy theo quy định tại dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi), 2 khoản ở Điều 15, chưa đáp ứng được. Khi đầu tư vào vùng đặc biệt khó khăn thì thường có mấy loại: một là đầu tư khai thác khoáng sản, khai thác tài nguyên rừng; hai là đầu tư về xây dựng thủy điện; ba là đầu tư vào trồng cây công nghiệp.
Các nhà đầu tư ghét nhất 4 loại là khai thác khoáng sản, khai thác tài nguyên, khai thác thủy điện và trồng cây công nghiệp. Vì ở những vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn đất rộng. Giám sát tại khoảng 18 tỉnh đều thấy có một tình trạng là chúng ta phải đưa ra 3 mục tiêu. Mục tiêu thứ nhất là lợi ích cho doanh nghiệp mới thể hiện khuyến khích đầu tư, doanh nghiệp phải có lợi ích thì đạt được yêu cầu này. Mục tiêu thứ hai là phải giải quyết được yêu cầu của người lao động tại chỗ thì gần như không đạt được, rất ít đối tượng lao động tại chỗ được tham gia, được lợi ích trong vấn đề đầu tư này. Thứ ba, lợi ích thu về cho ngân sách nhà nước rất thấp. Như vậy 3 lợi ích không đạt được, chỉ đạt được lợi ích cao nhất cho nhà đầu tư. Tôi nghĩ ở đây có vấn đề sơ hở trong Luật của ta. Khi ta nói rằng cứ đầu tư vào đây, tất cả các ngành nghề đều được ưu đãi - theo quan điểm của tôi không phải như vậy. Ở trên ta ghi là những ngành nghề được ưu đãi, ở hai điểm dưới là địa bàn, ta đọc vào địa bàn đó thì tức là tất cả các hoạt động đầu tư vào đây đều được ưu đãi - hiểu như vậy cũng không đúng. Tôi đề nghị phải chấn chỉnh lại vấn đề này.
Chúng tôi đi khảo sát tại một số nước Nga và Belarus, trước đây là Canada, Mỹ, Australia... thì thấy khi đầu tư vào những vùng đặc biệt khó khăn, người ta nói là những vùng trình độ phát triển thấp, thì các tài nguyên khoáng sản, tất cả những lợi ích đó chia đôi về lợi nhuận. Phần lợi nhuận 50% phải được đầu tư lại cho chính vùng khai thác. Ví dụ khai thác mỏ vàng, mỏ than, lợi nhuận của doanh nghiệp là 100% thì 50% chia lại để đầu tư cho vùng doanh nghiệp khai thác được, mà ta gọi là thuế tài nguyên và thuế tài nguyên thì quá nhỏ, không đáng bao nhiêu. Ở các nước người ta làm như vậy, nhưng ở ta tôi thấy chỗ này có sơ hở. Tôi đề nghị cần phải mổ xẻ rõ, cũng là địa bàn đặc biệt khó khăn nhưng với những loại nào mới khuyến khích đầu tư và những loại nào phải có điều kiện. Ví dụ ở Tây Nguyên, Tây Bắc có tình hình các doanh nghiệp đầu tư trồng cao su, cà phê, cacao và họ cần rất nhiều đất của dân thì bây giờ anh phải có lợi ích. Nếu anh thu nạp lao động tại chỗ vào làm tại doanh nghiệp thì tôi khuyến khích đầu tư. Tây nguyên đã làm được rồi. Ta đã có bài học này dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt của sự chỉ đạo của Chính phủ, yêu cầu tất cả các doanh nghiệp ở Tây Nguyên của Nhà nước khi đầu tư vào các vùng này đều phải thu hút lực lượng lao động tại chỗ. Cho nên bây giờ các nông, lâm trường đều có sự tham gia của lao động là đồng bào dân tộc tại chỗ. Đó là một cơ chế ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, ta không thể khuyến khích chung chung.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý: Có những quy định phải quy định ở Luật, không thể giao Chính phủ
So với dự thảo trình QH, dự thảo trình UBTVQH lần này đã được hoàn thiện nhiều hơn, rõ hơn và có vấn đề có tính nguyên tắc được thực hiện tương đối cụ thể. Tất nhiên, để tiếp tục hoàn chỉnh và trình QH xem xét thông qua tại Kỳ họp tới, tôi thấy rằng đây là dự án luật rất quan trọng. Như Chủ tịch QH thường nhắc, dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) và dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) là hai dự án luật quan trọng nhằm cụ thể hóa quy định Hiến pháp để thực hiện quyền công dân trong lĩnh vực làm ăn, sinh sống. Do đó, tôi đề nghị cần rà soát kỹ lại để có sự đồng bộ, thống nhất giữa các quy định của pháp luật.
Trước hết là cụ thể đúng tinh thần của Hiến pháp, bảo đảm thống nhất đối với các luật khác, các quy định của dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) liên quan đến rất nhiều luật khác như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Hải quan, Bộ luật Hàng hải, Hàng không... và đặc biệt là luật QH đang sửa đổi là dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi). Ngoài ra còn một Nghị quyết nữa không kém phần quan trọng là Nghị quyết 49/2010/QH12 của QH. Tôi đề nghị rà soát lại để có sự thống nhất ngay từ những quy định về thỏa thuận áp dụng pháp luật trong nước, pháp luật nước ngoài, chọn cơ quan giải quyết tranh chấp trong đầu tư để có sự thống nhất và theo nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam, không trái với pháp luật Việt Nam. Đồng thời chúng ta tôn trọng tính thỏa thuận và bảo đảm để cho pháp luật Việt Nam được thực hiện, không mở quá rộng phạm vi này. Đọc ở các luật hiện hành, chúng tôi thấy hầu như đều khoanh lại, tất nhiên trên cơ sở tôn trọng ý kiến, tôn trọng sự thỏa thuận của nhà đầu tư và các đối tác trong hợp đồng.
So với các dự án luật khác thì những quy định giao Chính phủ quy định chi tiết và theo quy định của pháp luật trong dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) đến nay đã được hạn chế, nhưng vẫn còn trên 10 nội dung có quy định này. Đề nghị phải rà soát lại, vì trong dự thảo tôi thấy có những quy định quan trọng phải quy định ở Luật, không thể giao Chính phủ. Ví dụ khoản 2, Điều 56, sau khi quy định các hình thức đầu tư ra nước ngoài thì khoản 2 Điều 56 quy định Chính phủ quy định chi tiết, quy định về hình thức đầu tư nước ngoài. Khoản 2, Điều 56 quy định như thế này là không phù hợp. Các điều quy định giao cho Chính phủ ở Điều 63, 65, 77 cũng không phù hợp. Đề nghị rà soát lại. Các quy định hiện nay chúng ta quy định dưới dạng theo quy định của pháp luật, ví dụ Điều 14 về mức ưu đãi đầu tư, Điều 59, Điều 60 quy định quyền, nghĩa vụ của nhà đầu tư, chúng ta quy định khoản 1 quyền thế này, nghĩa vụ thế này nhưng đến khoản 2 lại ghi các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật, quá mở rộng. Trước đây có thể quy định như vậy, nhưng bây giờ không thể quy định như thế này được nữa. Nghĩa vụ của công dân trong sản xuất kinh doanh bây giờ chỉ có theo quy định của luật. Nghĩa vụ phải theo quy định pháp luật. Pháp luật là từ Hiến pháp. Từ luật cho đến các Nghị quyết của HĐND, Thông tư, Chỉ thị của UBND cũng là pháp luật - như vậy là quá rộng. Chúng tôi đề nghị rà soát lại, và phải khoanh lại trong Luật, nhất là quy định về nghĩa vụ của các nhà đầu tư. Không thể quy định rộng như dự thảo Luật. Như vậy cũng không phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Đề nghị cần rà soát lại, nhất là những nội dung giao Chính phủ quy định. Đặc biệt trong dự thảo Luật này có 2 điều chúng ta hy vọng sẽ rõ hơn, quy định cụ thể hơn: Điều 5 về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và Điều 15 về ưu đãi đầu tư. Theo giải trình của Ủy ban Kinh tế thì tiếp thu ý kiến của ĐBQH về việc quy định cụ thể hơn ngành, nghề cấm đầu tư, điều kiện đầu tư kinh doanh được giải quyết ở Điều 5 và Điều 15. Nhưng theo dự thảo đã được tiếp thu, chỉnh lý thì vấn đề này chúng ta vẫn bỏ lửng... Đề nghị phải quy định cụ thể hơn, ví dụ Điều 5, ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh.
Tôi đề nghị cần bảo đảm sự thống nhất giữa Luật Đầu tư này với Luật Doanh nghiệp. Dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) quy định cụ thể ở khoản 3, Điều 7 về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Nhưng trong dự thảo Luật này chúng ta không làm rõ được như thế mà chỉ nói là khoản 1, ngành nghề và hàng hóa dịch vụ cấm đối với kinh doanh gồm a, b, nhưng a, b này sẽ được tổng kết và sẽ được hoàn thiện... Đề nghị cần làm rõ hơn và quy định cụ thể nội dung này.
Khoản 2 ghi ngành nghề và hàng hóa dịch vụ cấm đầu tư kinh doanh không được quy định tại khoản 1 điều này đều không có hiệu lực thi hành. Tôi thấy trong dự thảo có rất nhiều quy định dạng này mà quy định như thế là không đúng, làm mất tính nghiêm minh của pháp luật. Không việc gì phải quy định thế này. Luật không quy định thì không có hiệu lực và không được thi hành.