Nên giữ nguyên thuế suất 0% với dịch vụ xuất khẩu
Lo ngại việc phải chịu thuế suất giá trị gia tăng 10% khi xuất khẩu sẽ khiến các nhà cung cấp dịch vụ cho nước ngoài của Việt Nam khó cạnh tranh với đối thủ từ quốc gia khác, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đề xuất giữ nguyên thuế suất 0% như hiện hành.
Giảm khả năng cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ trong nước
Bộ Tài chính đang xây dựng dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi), dự kiến trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ Bảy (tháng 5.2024). Trong đó, khoản 1, Điều 9 của dự thảo Luật quy định theo hướng sẽ đánh thuế với hầu hết dịch vụ xuất khẩu thay vì cho phép hưởng thuế suất 0% như trước.
Cụ thể, các lĩnh vực dịch vụ xuất khẩu vẫn được hưởng thuế suất 0% chỉ còn vận tải quốc tế, cho thuê phương tiện vận tải ngoài lãnh thổ Việt Nam và một số dịch vụ liên quan. Các lĩnh vực dịch vụ khác sẽ phải chịu thuế suất tương ứng, về cơ bản là mức 10%. Lý do sửa đổi là thời gian qua, cơ quan thuế gặp khó khăn trong việc phân biệt doanh thu nào đến từ dịch vụ được xuất khẩu, doanh thu nào đến từ dịch vụ được tiêu dùng trong nước.
Theo VCCI, việc phải chịu thuế suất 10% khi xuất khẩu sẽ khiến các nhà cung cấp dịch vụ cho nước ngoài của Việt Nam gặp khó khăn khi cạnh tranh với đối thủ từ quốc gia khác.
Cơ quan này phân tích, xu hướng tăng trưởng thương mại dịch vụ quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới trong gần hai thập kỷ qua và nhiều khả năng sẽ tiếp tục trong thời gian tới, cùng với sự phát triển của internet và các phương thức làm việc từ xa. Theo cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, xuất khẩu dịch vụ toàn cầu đã tăng từ mức hơn 400 tỷ USD trong những năm đầu của thập kỷ 80 lên hơn 7.210 tỷ USD năm 2022. Đặc biệt, từ năm 2003 đến nay, tốc độ tăng trưởng trung bình của dịch vụ xuất khẩu toàn cầu đạt trên 6,5%.
Trong các loại hình dịch vụ xuất khẩu, dịch vụ vận tải quốc tế - được hưởng thuế suất 0% tại dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) - chiếm tỷ trọng lớn, nhưng tỷ trọng này ngày càng giảm, từ mức 30% năm 1982 xuống 17% năm 2020 (trước Covid-19), và được thay thế bằng các dịch vụ viễn thông và công nghệ thông tin. Tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ viễn thông và công nghệ thông tin toàn cầu trung bình 12,3% từ năm 2004 đến nay với tốc độ ngày càng nhanh kể từ Covid-19.
Hiện nay, xuất khẩu dịch vụ là lĩnh vực đang có tiềm năng phát triển rất lớn. Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam năm 2023 đạt khoảng 20 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 11% mỗi năm, cao hơn so với tăng trưởng GDP. Việt Nam đang nhập siêu dịch vụ ở mức hơn 10 tỷ USD mỗi năm. Để cung cấp dịch vụ xuất khẩu, các doanh nghiệp thường không yêu cầu vốn đầu tư quá lớn như công nghiệp chế biến chế tạo, phù hợp với một nền kinh tế thiếu vốn như Việt Nam. Thêm vào đó, xuất khẩu dịch vụ trên môi trường internet hiện nay giúp quảng bá hình ảnh đất nước và làm gia tăng sức mạnh mềm của quốc gia.
“Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế định hướng xuất khẩu; từ đổi mới đến nay, xuất khẩu hàng hóa luôn là động lực tăng trưởng quan trọng của đất nước, với tốc độ tăng trung bình gần 15% mỗi năm. Kết quả này có được không thể không kể đến vai trò của chính sách thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% và doanh nghiệp được hoàn thuế đầu vào”, VCCI khẳng định.
Hầu hết quốc gia khác áp thuế 0% với dịch vụ xuất khẩu
Bên cạnh đó, theo VCCI, hiện các quốc gia đều áp thuế suất 0% thuế giá trị gia tăng cho dịch vụ xuất khẩu và cho phép doanh nghiệp được hoàn thuế đầu vào. Qua tìm hiểu, VCCI khẳng định, chưa tìm thấy trường hợp nào đánh thuế đối với dịch vụ xuất khẩu.
Tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia khác trong việc thực hiện chính sách thuế giá trị gia tăng dịch vụ xuất khẩu 0%, VCCI nhận thấy các nước thường áp dụng nguyên tắc doanh nghiệp tự khai, tự chịu trách nhiệm, cơ quan thuế thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm. Để bảo đảm kê khai thuế chính xác, các quốc gia cũng yêu cầu doanh nghiệp phải hạch toán riêng doanh thu từ người dùng trong nước và nước ngoài, sử dụng nhiều biện pháp kiểm tra như dữ liệu từ các nền tảng trung gian (Google, Apple…), IP của người dùng, và dữ liệu thanh toán ngân hàng. Các thông tin này được thu thập, phân loại và quản lý theo rủi ro.
Nhiều doanh nghiệp phản ánh, thời gian qua, để bảo đảm hạch toán riêng giữa doanh thu từ người dùng trong nước và người dùng nước ngoài, doanh nghiệp đã buộc phải tách sản phẩm thành hai phiên bản để cung cấp cho hai thị trường khác nhau. Tuy nhiên, giải pháp này phát sinh nhiều vấn đề và làm tăng chi phí vận hành, cung cấp sản phẩm của doanh nghiệp.
Hiện nay, tình trạng các doanh nghiệp công nghệ thông tin của Việt Nam ra nước ngoài mở doanh nghiệp diễn ra ngày càng phổ biến. Ngoài việc có được ưu thế về huy động vốn từ nhà đầu tư, môi trường kinh doanh thuận lợi, thì vấn đề thuế cũng là một trong những nguyên nhân của tình trạng này. Nếu mở doanh nghiệp tại Việt Nam cung cấp cho người dùng nước ngoài, sản phẩm sẽ phải chịu hai lần thuế giá trị gia tăng cho hai quốc gia. Nhưng nếu mở doanh nghiệp tại nước ngoài để cung cấp cho người dùng tại Việt Nam thì chỉ phải chịu một lần thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam.
Với tất cả các lý do trên, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo vẫn duy trì quy định dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% và giao cho Bộ Tài chính hướng dẫn phương pháp phân loại dịch vụ xuất khẩu và dịch vụ tiêu dùng trong nước.